Monday, February 6, 2012

Phần cuối: TẢN MẠN KHẢ NĂNG TỰ SUY THOÁI CỦA PHẬT GIÁO

Trần Văn Chánh

(TG&DT) - Rốt cuộc, có lẽ chúng ta chỉ nên chấp nhận sự tương đối, không đòi hỏi đạt được mức độ lý tưởng, vì mọi lý tưởng nếu muốn áp dụng chung cho cả một cộng đồng quốc gia đông người là điều hầu như không bao giờ có thể thực hiện được.

Thực tế còn cho thấy, nhẹ nhàng hơn nhưng khó nhận ra chỗ vi phạm vì tinh tế hơn, người ta đang có khuynh hướng đua nhau cất những ngôi chùa thật sang trọng bằng tiền quyên góp thiện nguyện của Phật tử giàu có, cho như thế là để tạo phương tiện hoằng dương Phật pháp nhưng không phải ai cũng làm đúng được ý nghĩa lành mạnh như vậy, mà có xu hướng phô trương vật chất và hưởng thụ nhiều hơn. Không ít chùa xây mới hoặc trùng tu tới tiền tỉ, chuẩn bị sẵn hầm để xe hơi và những phương tiện sinh hoạt đời thường khác. Chỉ một số ít thầy chân tu không chạy theo phong trào thì mới có được “chùa rách Phật vàng”.

Như chúng ta đều có thể biết, lối sinh hoạt như trên là đã vi phạm vào giới luật tối thiểu, vì trong 10 giới sa di phải nghiêm thủ, có giới thứ 8 là không sống đời sống vật chất sang trọng và xa hoa, trên cơ sở ý thức được rằng sống trong những điều kiện vật chất sang trọng và xa hoa, người xuất gia sẽ khởi tâm ái dục và tự hào, trái với nếp sống giản dị, tri túc thiểu dục của nhà Phật. Vì thế sa di không được nằm ngồi trên những chiếc ghế và giường lộng lẫy, không sử dụng lụa là, gấm vóc, xe cộ bóng loáng và nhà cửa cao sang. Còn nói đến 250 giới khắt khe chi li của bậc tì kheo, hoặc 348 giới của tì kheo ni, thì sự phạm giới trong những lối sống xa hoa như vậy còn tỏ ra trầm trọng hơn nhiều.

Lại còn có hiện tượng trái quấy truyền thống nữa như việc tổ chức những lễ hội rình rang tốn kém. Ngày kỷ niệm Phật đản sinh chẳng hạn, thay vì nên nhắm tới mục tiêu nhắc nhở và đề cao ý thức tu hành tinh tấn, noi gương Phật tổ, thì có không ít nơi người ta lại coi là dịp để phô trương đơn thuần về các mặt hình thức, đón rước linh đình, mà có thể từ đó còn tạo thêm cái tâm so sánh phân biệt và đố kỵ lẫn nhau. Lại có khi còn đi đến chỗ quá trớn hơn, vì chuyện chạy theo lễ lạc mà quên cả Phật pháp, như trong trường hợp trụ trì chùa tổ chức thêm những hình thức đặc biệt thu tiền của bá tánh và để đảm bảo tính cách trang nghiêm long trọng của các buổi lễ lớn thường niên, đã sai đệ tử mạnh tay đuổi thẳng những người nghèo khổ xin ăn đang lảng vảng ở trước sân chùa!

Thời gian những năm gần dây, nhiều lễ hội hoặc cuộc hành hương mang màu sắc Phật giáo đã có khuynh hướng đi vào mê tín rõ rệt, bị một số đình chùa lạm dụng trục lợi trắng trợn, tạo nên những hình ảnh lệch lạc khó coi bị cả dư luận xã hội lên án, làm ảnh hưởng nặng nề đến uy tín chung của Phật giáo. Việc dùng xe công đi lễ chùa rất phổ biến hiện nay cũng cho thấy hiện tượng chạy theo những giá trị hào nháng bề ngoài của một số Phật tử trong giới công quyền.

Hòa thượng Thích Thanh Từ cũng đã từng nhận định khi phê phán số Phật tử đến viếng chùa không phải vì động cơ tu học mà chỉ vì lòng tham, tin vào sự cầu cúng có thể mang lại cho mình được nhiều phước lộc: “Bởi những người Phật tử như thế đến với chùa, nên trong chùa mới có xin xăm bói quẻ, cúng sao cúng hạn, coi ngày lành ngày dữ… để thỏa mãn đòi hỏi của họ. Mặc dầu gần đây Giáo hội Phật giáo Việt Nam kêu gọi dẹp bỏ mê tín dị đoan, song thói quen của những Phật tử này vẫn chưa bỏ được. Nguyên nhân Phật giáo suy đồi (TVC nhấn mạnh) phần lớn do những vị này mà ra” (sđd., tr. 10).  Xin mở thêm dấu ngoặc, chỗ này dường như Hòa thượng hơi thiếu công bằng, đổ hết lỗi về cho phía các thí chủ!  

Trong cộng đồng những người theo đạo Phật, không kể chuyện phân phái được coi là đương nhiên về phương diện tư tưởng và nhận thức giáo lý, vẫn còn một số biểu hiện mất đoàn kết, tồn tại không ít những mối mâu thuẫn và tranh chấp giữa những nhóm đạo Phật khác nhau, hoặc giữa đạo Phật với một tôn giáo khác, theo tinh thần “bài xích dị kỷ”, chống lại những kẻ khác mình, một cách công khai hoặc ngấm ngầm. Điều này chúng ta có thể đọc thấy được ngay trong một số bài viết về tôn giáo hiện hành.

Nói lên những điều vừa kể ở trên, chúng ta không có ý phê phán việc phát triển chùa chiền theo hướng hiện đại hóa để phục vụ cho việc tu tập và truyền bá giáo lý được tốt hơn. Bởi vì việc tu theo đạo Phật ngày nay lẽ tất nhiên phải có những chuyển biến thích hợp theo thời hiện đại, không khư khư bảo thủ khuyến khích những lối tu khổ hạnh. Tuy nhiên, bất kỳ một sự xa hoa thái quá nào không cần thiết hoặc không nhắm vào mục tiêu chân chính quảng bá đạo pháp cũng đều có hại và khó thể được chấp nhận.

Trái lại, một chùa nghèo ở nơi thâm sơn cùng cốc, ít có tín đồ lui tới cúng dường, vẫn có thể tu hành đắc quả được. Vả chăng, ở đâu có quá nhiều hình thức màu mè thì ở đó có thể ít có hơn những nội dung chân thực, chẳng khác nào giáo hội ở một nơi nào đó, nhờ được nhà cầm quyền ủng hộ, có được điều kiện phát triển rộng rãi về bộ mặt nhà cửa chùa chiền và thu hút được đông đảo Phật tử đến nơi vãng cảnh, cúng dường, nhưng nếu thiếu một nội dung Phật chất bằng sự tu trì nghiêm túc nhằm đạt sự giác ngộ, thì bộ mặt hoành tráng bề ngoài có khi lại là một chướng ngại không nhỏ cho nỗ lực tu chứng và hành đạo, sống đạo.


Bệnh chuộng hư danh và phô trương hình thức khá phổ biến hiện nay là một chứng bệnh nguy hiểm, tạo nên ảo giác lạc quan về sự phát triển hình thức, số lượng bề ngoài làm cho người ta càng xa dần với nỗ lực sống đạo. Khoảng năm 1974, trong phần mở đầu cuốn Đạo Phật ngày mai, Hòa thượng Nhất Hạnh đã từng cảnh báo nhắc nhở điều này đối với toàn thể tăng ni Phật tử. Ông đã có dịp đi quan sát khắp nơi trên nhiều quốc gia và nhận thấy rằng tại những nơi Phật giáo được chính quyền ủng hộ thì giáo hội thường phát triển mạnh nhưng thiên trọng về cơ sở vật chất hơn là sự tu chứng. Trái lại, hiện tượng tu chứng đã được ghi nhận nhiều hơn chính tại những nơi chịu cảnh trái nghịch, không đạt được những điều kiện thuận lợi bề ngoài như thế…    

Trong điều kiện Việt Nam hiện tại, mối quan hệ giữa Phật giáo và chính quyền đã có nhiều bước cải thiện đáng kể, nhưng chưa phải đã xóa được hoàn toàn mọi chỗ mắc mứu, vì thế người Phật tử chân chính tận tâm tu học cũng phải luôn luôn suy xét cảnh giác nhận thức đúng hoàn cảnh, củng cố chánh niệm, để vừa đảm bảo việc tu tập của mình không bị trở ngại, vừa tránh được những suy nghĩ cực đoan một chiều và phiến diện.

Ở Việt Nam, không có tình trạng tôn giáo bị bức hại, thậm chí Phật giáo còn được đối xử tốt, nhiều chùa chiền lớn đã mọc lên, hoạt động lễ hội, tu học và hoằng pháp được tự do, nhưng giả định có khuynh hướng một số nhà chức trách nào đó, do quan niệm thiếu chuẩn xác, chỉ muốn coi Phật giáo như một lực lượng có lợi cho mình về phương diện chính trị mà can thiệp hơi sâu vào hoạt động của giáo hội, thì đó chẳng những không phải là cách tốt nhất giúp Phật giáo phát triển đúng hướng một cách tự nhiên mà còn có thể vô tình là một trong những nguyên nhân góp phần làm cho đạo Phật khó giữ được tính độc lập cùng những bản sắc cố hữu của nó. Giữa chính quyền và các tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng, trái lại nên có một sự phân công rõ ràng hơn, trong đó phần của các tôn giáo giữ vai trò tích cực góp phần giáo dục đời sống tinh thần của dân chúng để trong nước ngày càng có nhiều hơn những công dân lương thiện, nhờ thế mà chính phủ sẽ đỡ đi gánh nặng rất nhiều trong việc gìn giữ trị an, bài trừ tội ác và các tệ nạn xã hội hiện đang bị gia tăng dưới mọi hình thức mà hầu như chưa có một giải pháp khả thi toàn diện nào có thể ngăn chặn kịp thời. Còn phía chính phủ, đối với các tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng, chỉ nên đóng vai trò trọng tài, bảo vệ luật pháp, ngăn cấm và xử lý nếu có xảy ra những tình trạng lạm dụng tự do tín ngưỡng. Đó là đường lối xử trí tốt đẹp nhất mà hai bên có thể hợp tác chân thành với nhau vì mục tiêu chung tốt đạo đẹp đời.    

Giả định một số biểu hiện tiêu cực như các phần nêu trên đã mô tả vẫn tiếp tục kéo dài và lan rộng mà không có cách gì ngăn chặn lại được kịp thời thì cái xấu sẽ phát triển dần lên đến mức khó kiểm soát, Phật giáo Việt Nam chắc chắn phải có hồi suy tàn, tương tự như hiện tượng suy tàn của đạo Phật tại Ấn Độ ngày trước. 

Một thực tế không thể chối cãi là Phật giáo đã thật sự bị suy tàn ở chính nơi quê hương gốc của Đức Phật. Sự suy tàn này có thể đã bắt đầu từ thế kỷ thứ 7 và đạo Phật thật sự biến mất trên đất Ấn vào thế kỷ thứ 14. Mãi cho đến thế kỷ 19 thì phong trào chấn hưng Phật giáo tại Ấn Độ mới bắt đầu trở lại, nhưng cũng chỉ vớt vát được một phần rất nhỏ.

Về các nguyên nhân được nêu ra, hiện đang có rất nhiều bài viết phân tích của các tăng nhân, học giả, ý kiến còn nhiều chỗ phân vân, dị biệt, nhưng chung nhất vẫn có sự thừa nhận rằng một trong những nguyên nhân quan trọng là đời sống trụy lạc của giới tăng sĩ. Quan điểm chung của các học giả Ấn Ðộ cho đó là sự xao lãng và sa đọa trong đời sống đạo đức và tâm linh của giới tu sĩ Phật giáo, tăng cũng như ni. Cộng thêm vào đó, từ thế kỷ thứ 7 trở đi, đạo Phật đã có nhiều biểu hiện phân hoá với sự xuất hiện của nhiều tông phái có đường lối dị biệt và nhiều lúc chia rẽ nhau. Sự bao dung và tự do của Phật giáo cũng là một tiền đề cho sự suy tàn.

Ngoài ra, trong thời gian đó, với đặc tính dễ thích nghi và phù hợp với nhu cầu thờ phụng của người bình dân ở Ấn Độ, đạo Bà La Môn có điều kiện dễ phát triển hơn đã làm cho đạo Phật dần dà trở thành thứ yếu hay chỉ còn là tôn giáo của tầng lớp trí thức. Một nguyên nhân quan trọng khác nữa thường được nhắc tới là sự bức hại Phật giáo của những người Hồi giáo cực đoan trong thời kỳ đó.

Sự biến mất của Ðạo Phật ở Ấn Ðộ, nơi nó đã được sinh ra, trưởng thành và đạt đến những thành tựu cao nhất, là một hiện tượng đáng ngạc nhiên và đau lòng đối với những người chí thú với Phật pháp, mặc dù vậy nó vẫn đã xảy ra trên thực tế chứ không còn là một điều tưởng tượng. Tuy nhiên, cho đến tận giờ, thế nào và tại sao đạo Phật đã không tồn tại lâu dài ở Ấn Độ vẫn còn là một vấn đề khó hiểu với nhiều ý kiến rất khác nhau.

Câu chuyện giữa Đức Dalai Lama (Phật giáo Tây Tạng) và nhà báo Mỹ Thomas C. Laird được kể tóm lược sau đây có lẽ rất đáng chú ý để góp phần soi sáng nguyên nhân Phật giáo bị diệt vong ở Ấn Độ, một vấn đề bức xúc làm điên đầu rất nhiều tăng nhân và học giả để tâm nghiên cứu lịch sử đạo Phật thế giới. Trong quyển sách Câu chuyện Tây Tạng: Những cuộc trò chuyện với Đức Dalai Lama (The Story of Tibet: Conversations with the Dalai Lama), tác giả nhà báo trên ghi nhận:

 “Phật giáo bị hủy diệt tại Ấn Độ, đã biến mất khỏi đất nước đã sinh ra tôn giáo này, hình ảnh mỉa mai ấy ám ảnh tôi trong nhiều thập niên… Tôi hỏi: ‘Phật giáo bị hủy diệt tại Ấn Độ như thế nào? Có phải chỉ vì những cuộc tấn công của người Hồi giáo?’.

“Đức Dalai Lama bắt đầu nói: ‘Không có gì xảy ra bởi một nhân tố. Một học giả tài giỏi đã quá cố có gởi tôi một quyển sách ông viết, trong đó bàn về ba nguyên nhân làm Phật giáo suy tàn tại Ấn Độ.

 “Đức Dalai Lama nói tiếp: ‘Một là, những thí chủ ủng hộ các thiền viện càng ngày càng có xu thế xa rời truyền thống Phật giáo. Hai là, những tác động từ bên ngoài như Hồi giáo và các lực lượng khác, họ ra sức tiêu diệt Phật giáo. Ba là, các thiền viện và bản thân chư tăng trở nên rất giàu, tích trữ nhiều vàng, lại thêm tửu sắc. Những việc đó đã xảy ra. Do đó dân chúng không còn tôn kính, có người thì khinh rẻ, hoặc mất lòng tin chư tăng. Thế nên tôi nghĩ rằng không phải một mà là có nhiều nguyên nhân’.

“Tôi hỏi: ‘Thật ư? Ngài không trách người Hồi giáo sao?’.

“[Đức Dalai Lama đáp:] ‘Tôi nghĩ rằng trong trường hợp Tây Tạng cũng thế, y hệt như trường hợp Ấn Độ, có xu hướng xem xét những nguyên nhân bên ngoài. Khuynh hướng xem xét trước tiên những tác động ngoại lai đã mọc rễ sâu trong đầu con người và khó loại bỏ. Chúng ta chẳng thể làm được gì nhiều về những người khác, về những tác động ngoại lai. Nhưng chính chúng ta, nếu chúng ta không tu hành tốt, không giữ gìn giới luật, thì tôn giáo chúng ta trở thành giả dối. Đây là sự thật. Vậy đây đúng là lịch sử Phật giáo tại Ấn Độ và Tây Tạng’.

Tác giả Thomas C. Laird viết tiếp: “Tôi sửng sốt thấy rằng trong mọi trường hợp, Đức   Dalai Lama trước tiên tìm lỗi bản thân trước khi Ngài tìm lỗi người khác. Ngài trước tiên tìm lỗi ở Phật giáo trước khi tìm lỗi ở các tôn giáo khác. Ngài trước tiên tìm lỗi ở Tây Tạng rồi mới tìm lỗi ở các nước khác. Khuynh hướng của Ngài đã định hình cách Ngài nhìn lịch sử (…). Khuynh hướng của Ngài là trước hết hãy thấy lỗi của chính mình, quốc gia mình, và tôn giáo mình” (Dũ Lan Lê Anh Dũng trích dịch, xem “Tái bút hồi âm một người bạn”, Tuần báo Công Giáo Và Dân Tộc, số 1819, từ 5.8 đến 11.8.2011, tr. 42)

Ý kiến của Dalai Lama như trên thật đáng là một đề tài để mọi người tham khảo suy ngẫm, đem soi chiếu một cách hữu ích cho hiện trạng của Phật giáo Việt Nam và nhiều nơi khác trên thế giới, vì tại những nơi này, xu hướng lối sống xa rời truyền thống Phật giáo của các tăng sĩ là một sự thật không thể chối cãi, nếu không muốn nói còn đang ngày một gia tăng. Với cái đà này, nếu không ngăn chặn lại được, và theo cách nhìn vấn đề của Dalai Lama như trên, khả năng xuống cấp di dần tới tự hủy diệt của Phật giáo Việt Nam và một số nơi khác trên thế giới là một điều hoàn toàn có thể xảy ra trong một tương lai không xa.  

Tuy nhiên, với cái nhìn biện chứng thực tế hơn, và thận trọng hơn, mặc dù “thành trụ hoại không” vẫn là một chân lý bất di bất dịch hiểu theo nghĩa tổng quát, Phật giáo chắc chắn sẽ không thể bị hủy diệt theo nghĩa đen như một khối vật chất bị phá hủy, nhưng quá trình tự hủy của nó cũng sẽ diễn ra một cách tương tự như định luật bảo tồn khối lượng chất đã phát biểu, rằng không có gì mất đi hẳn, mà sẽ chuyển hóa để tồn tại dưới những hình thái và số lượng-chất lương khác. Như vậy, với cái đà phát triển bất toàn này, như chúng ta đã thấy, có thể Phật giáo không bị biến mất hoàn toàn trên thế gian khi cuộc đời vẫn còn là bể khổ, mà bị biến chất, suy thoái theo một con đường lắt léo phức tạp nào đó tùy theo những yếu tố tác động khác nhau từ bên ngoài, đến mức sẽ có thể trở thành giả dối và chỉ còn là một cái xác không hồn, mất hết nội dung Phật chất, tồn tại một cách lu mờ mà không mang lại lợi lạc thực tế gì cho cuộc nhân sinh.

Rốt cuộc, có lẽ chúng ta chỉ nên chấp nhận sự tương đối, không đòi hỏi đạt được mức độ lý tưởng, vì mọi lý tưởng nếu muốn áp dụng chung cho cả một cộng đồng quốc gia đông người là  điều hầu như không bao giờ có thể thực hiện được. 

Trong chiều hướng cải cách Phật giáo để thích nghi với điều kiện mới của xã hội hiện đại, có lẽ nên nghĩ tới việc sửa lại một số điều khoản trong giới luật theo hướng giảm bớt và giản dị hóa cho người tu tập dễ theo, và nhờ thế cũng sẽ giảm bớt được tình trạng vi phạm giới luật đang có vẻ quá nhiều như hiện nay, giúp cho việc tu hành được thêm dễ dàng thoải mái. Nếu không đạt được sự tu chứng với số đông người ở trình độ cao để có nhiều thiền sư đắc đạo, thì tạo được một xã hội có nội dung Phật chất rộng rãi trong đó càng có được nhiều người hơn biết ăn chay niệm Phật, thương người thương vật bằng tâm từ bi hỉ xả, hoặc thậm chí chỉ cần sống theo tinh thần hướng thiện của đạo Phật, cũng đã tốt lắm rồi.

Để đề phòng khả năng suy sụp về chất (chứ không phải về hình thức, số lượng), và bảo vệ uy tín cho cộng đồng, gây lại niềm tin cho dân chúng nói chung và tín đồ Phật giáo nói riêng, giáo hội cũng cần tự cải tạo hình ảnh bằng cách làm trong sạch mình hơn nữa thông qua công tác bầu chọn, bổ nhiệm nhân sự, và tăng cường kỷ luật hơn nữa để có thể đưa ra khỏi hàng ngũ những người vì thiếu căn tu mà vi phạm quá nhiều giới cấm, đặc biệt là đối với một số phần tử xấu cố ý lợi dụng lớp áo nhà tu để trục lợi, mượn đạo tạo đời…

Trong lịch sử Việt Nam, từng có trường hợp Phật giáo bị lợi dụng và sa đọa nặng nề, nhưng cũng đã có những tấm gương chấn chỉnh đạo pháp mà thành công, như trong trường hợp Chúa Nguyễn Phúc Chu (1675-1725) đã làm được trong khoảng nửa đầu thế kỷ 18 ở xứ Đàng Trong (miền Nam thời trước), nhờ vào nhận thức sáng suốt và sự kiên quyết (có thể xem Trần Hồng Liên, “Đặc điểm Phật giáo Đàng Trong thế kỷ 18”, đặc san Suối Nguồn, tập 1, NXB. TP. Hồ Chí Minh, tháng 5.2011).

Những việc cần làm ngay này không dễ dàng chút nào đâu, vì chắc chắn sẽ có tình trạng kiêng nể, bao che lẫn nhau, cũng khó khăn tương tự như việc nhà nước muốn chống nạn tham nhũng tràn lan vậy, nên đây có thể coi là một vấn nạn mà khả năng vượt qua được tới đâu là một thách thức rất to lớn đối với toàn thể giáo đồ, đặc biệt đối với những vị lãnh đạo tôn giáo đang có trọng trách và tầm ảnh hưởng quan trọng trong cuộc hưng suy của Phật giáo tại Việt Nam.

Phải có đủ cả bi, trí, dũng, giới, định, huệ và chánh kiến, chánh tư duy lẫn cả chánh niệm, chánh tín mới dám nhìn thẳng vào sự thật để tự phê phán và từ đó giải quyết vấn đề, tiến hành công cuộc cải lương giáo hội một cách thật sự hiệu quả, nhằm tránh vết xe đổ của một đạo Phật bị tuyệt diệt trên thực tế tại Ấn Độ.

No comments: