Saturday, December 24, 2011

THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CHỮA BỆNH CỦA NHỮNG NGƯỜI CÓ KHẢ NĂNG ĐẶC BIỆT TRONG QUÁ KHỨ & HIỆN TẠI, Ở TRONG NƯỚC & NƯỚC NGOÀI


Bác sĩ Nguyễn Thế Dân
MỞ ĐẦU

Sức khỏe là trạng thái thoải mái toàn diện về thể chất, tinh thần và xã hội và không phải chỉ bao gồm có tình trạng không có bệnh hay thương tật (theo Tổ chức Y tế thế giới).

Mong muốn có một sức khỏe tốt nhất là một nhu cầu tự nhiên và là một trong những quyền cơ bản của con người dù thuộc bất kỳ chủng tộc, tôn giáo, thể chế chính trị hay điều kiện kinh tế - xã hội nào.

Y học là khoa học và nghệ thuật chữa bệnh, bao gồm nhiều phương pháp chăm sóc sức khỏe nhằm duy trì, phục hồi cơ thể bằng cách nâng cao sức khỏe, phòng bệnh và chữa bệnh, phục hồi chức năng. Có lẽ ngay từ khi xuất hiện loài người thì y học đã có sự đồng hành bởi nó đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe cho con người. Tổ tiên chúng ta trong quá trình lao động, sản xuất, đấu tranh với thiên nhiên, đã phải tự tìm thức ăn, thức uống để sống và duy trì sức khỏe.Trong quá trình đó con người đã tìm thấy những cây cỏ có chất độc, hoặc cây cỏ có tính giải độc, hoặc ăn vào thấy khoẻ, bệnh tật hoặc thương tật mau lành. Dần dần những kinh nghiệm đó được tích lũy và vận dụng vào việc nghiên cứu, thực hành chữa bệnh và tăng cường sức khỏe. Cũng từ đây xuất hiện một số người có khả năng tổng hợp và phân tích thành hệ thống lý luận, họ được coi là những thầy thuốc. Xã hội càng phát triển thì nhận thức của con người cũng được nâng cao và riêng với y học cũng theo đó mà phát triển cả về lý luận lẫn kinh nghiệm thực tế.

Theo truyền thuyết, Hoàng đế Thần Nông (Viêm Đế) trị vì ở Trung Hoa từ năm 2838 đến 2698 Tr.CN thường được xem như là người sáng lập nền Y học phương đông. Ông được coi là người đã soạn ra cuốn sách “Thần Nông bản thảo” , trong đó có ghi chép tất cả 365 vị thuốc và là Bộ sách cổ nhất của Trung y. Ông cũng là người đặt nền móng cho học thuyết âm dương tồn tại đến ngày nay như là một học thuyết chi phối nhiều lĩnh vực của văn hóa phương đông. (Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu thì cuốn Thần Nông bản thảo không phải là do một người viết ra, mà là kinh nghiệm của nhiều người tích luỹ lại viết thành sách. Người ta đã đặt truyền thuyết về Vua Thần Nông để gây tin tưởng trong việc truyền bá, vì thực tế bộ sách này chỉ xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ II-SCN ).

Dựa trên quan điểm lý luận coi thân thể người như một hệ thống tích hợp và sử dụng các kiến thức truyền thống đã được kết tinh thành các học thuyết như học thuyết kinh mạch, thuyết âm dương, và thuyết ngũ hành, thiên nhân đồng nhất thể … trải qua hàng nghìn năm nền Y học phương đông vẫn tồn tại và phát triển ngày càng mạnh cho đến nay, thậm chí ở ngay cả những quốc gia phát triển như Mỹ, Pháp, Úc … nhiều phương cách chữa bệnh của Y học phương đông cũng được áp dụng.

Hippocrates (460-337 TCN) được xem là tổ sư của ngành y mà kế thừa ngày nay là Y học phương Tây, còn được gọi là Y học hiện đại (Tây y). Một trong những quan điểm quan trọng của ông là bác bỏ những quan niệm cho rằng bệnh gây nên do các sức mạnh siêu nhiên và do người ta có những ý nghĩ tội lỗi hay báng bổ thần thánh. Ông cũng là người đã soạn thảo "Lời thề Đạo đức Y khoa" (còn gọi là "Lời thề Hippocrates" thường được các sinh viên ngành y đọc trong lễ tốt nghiệp như 1 lời tuyên thệ) Khởi đầu của Tây y người ta cũng dùng thảo mộc, thể tạng động vật hay khoáng chất để chữa bệnh. Y học hiện đại phát triển trên cơ sở các thành tựu khoa học của nhiều lĩnh vực như giải phẫu học, vật lý, hóa học, sinh học, di truyền học, điện tử học … với hai chuyên ngành chính là Y khoa và Dược khoa thực sự đã mang lại hiệu quả to lớn trong khám chữa bệnh và bảo vệ sức khỏe cho con người. Tây y thực hiện theo nguyên tắc khoa học thực chứng, người thầy thuốc làm việc tuân thủ các lý thuyết lâm sàng và các phác đồ điều trị đã được hệ thống hóa theo các chương trình đào tạo chính quy của hệ thống các trường Y với nhiều cấp học từ sơ học đến đại học và sau đại học. Tây y áp dụng các biện pháp điều trị như tiêm, uống thuốc, phẫu thuật và xạ trị…Với đội ngũ thầy thuốc được đào tạo bài bản và hệ thống trang thiết bị y học hiện đại, ngày nay Tây y được coi là Y học chính thống ở hầu hết các nước trên thế giới.

Bên cạnh 2 nền y học lớn là Trung y và Tây y thì tại nhiều quốc gia, dân tộc khác nhau, trong lịch sử phát triển của mình cũng có những hệ thống chăm sóc sức khỏe và chữa trị bệnh tật mang nét riêng biệt và độc đáo còn tồn tại đến nay. Những phương cách chữa bệnh này nếu có cơ sở lý luận và thực tiễn hiệu quả thì được công nhận và được coi như một ngành Y học bổ xung. Nhiều phương cách khác tuy không được hoặc chưa được các nhà quản lý thừa nhận và cho phép hoạt động nhưng vẫn tồn tại trong cộng đồng.

Ở Việt Nam hiện nay cũng đã và đang tồn tại rất nhiều các hình thức chữa bệnh theo lối kinh nghiệm truyền thống (dân gian, gia truyền …) hoặc được thực hiện do một số người có khả năng đặc biệt, có thể dùng thuốc hay không dùng thuốc. Trong những năm gần đây, những hình thức chữa bệnh này vẫn có nhiều người, thậm chí rất đông người bệnh tin theo. Thực tế đó đòi hỏi các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu và hệ thống quản lý đặt vấn đề nghiên cứu, phân tích và lý giải nhằm mục đích bác bỏ hay duy trì và phát triển nó, mang lại lợi ích cho cộng đồng.

Cùng với mục đích nêu trên, tháng 11/2011 Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng của con người trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam triển khai đề tài "Nghiên cứu, phân loại và cơ sở khoa học của các phương pháp chữa bệnh của những người có khả năng đặc biệt".

Bài viết này có tính chất liệt kê một số trường hợp chữa bệnh không theo các phương pháp truyền thống nêu trên, được thực hiện bởi những người có khả năng đặc biệt, đã được biết đến từ nhiều nguồn thông tin truyền thông khác nhau. Do khuôn khổ bài viết, mỗi phương pháp chỉ liệt kê một số trường hợp điển hình hoặc có ảnh hưởng lớn ở Việt Nam và một số quốc gia khác.

I. CHỮA BỆNH BẰNG NĂNG LƯỢNG SINH HỌC (NLSH)

NLSH là khái niệm được biết đến dưới nhiều tên gọi khác nhau tùy theo các giai đoạn lịch sử và truyền thống cũng như quan điểm của dân tộc, tôn giáo hay các nghiên cứu cá nhân để chỉ ra một loại năng lượng lan tỏa khắp vạn vật trong vũ trụ, là yếu tố quyết định sự tồn tại và sức sống của các chủ thể sinh học. Theo Rosemary Ellen Guiley trong cuốn “Từ điển tôn giáo và các thể nghiệm siêu việt”, các học giả Phương Tây hiện nay gọi NLSH là Năng lượng đời sống phổ biến (Tiếng Anh: Universal Life Force), bao hàm các khái niệm tương đồng như: Prana (Ấn độ), Khí (qi, ki theo tiếng Trung, Nhật), Mana, Aura (hào quang), Bioplasma (trường sinh học), Bioenergie, Orgone … Ở Việt Nam, NLSH của con người được gọi là Nhân điện.

NLSH đang được tiếp tục nghiên cứu tìm hiểu bởi các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học khắp nơi trên thế giới. Tuy chưa được minh chứng đầy đủ bằng khoa học thực nghiệm và còn gây nhiều tranh cãi, nhưng NLSH đã được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực của đời sống, trong đó nhiều nhất là trong việc chăm sóc sức khỏe và chữa trị bệnh tật.

1.1. Chữa bệnh bằng khí công – dưỡng sinh

Hình thành và phát triển dựa theo các học thuyết của triết học Phương Đông, Khí công đã có lịch sử trên 2000 năm ở Trung Quốc, là một hình thức tu dưỡng tinh thần và luyện tập đặc biệt nhằm kiểm soát và vận hành “khí ”. Tùy theo trình độ, khả năng và cả “cơ duyên” mà những người luyện tập khí công có thể trở thành những người có khả năng siêu phàm. Họ có thể phi thân, nhìn xuyên suốt cơ thể con người, "phát công" làm di chuyển đồ vật, thay đổi thành phần hoá học của vật chất và chữa bệnh không cần thuốc … những khả năng đó mang đầy tính huyền thoại, nhưng lại là một thực tế.

Ngày nay khí công đang được toàn thế giới quan tâm nghiên cứu, đặc biệt là ở Trung Quốc, hằng ngày có hơn 50 triệu người tập luyện và nổi lên nhiều cao thủ lừng lẫy đã được Nhà nước Trung Quốc công nhận là có thực tài như Lưu Văn Khanh, Phạm Ứng Liên, Dương Mai Quân,Vương Duy Thận, Nghiêm Tân,Vương Lực Bình, Phú Lực, Lâm Hậu Tỉnh v.v… Họ là những võ sư – khí công sư được người đời xưng tụng là “Tôn sư ”.

1.2. Nghiêm Tân - (Trung Quốc)

Nghiêm Tân sinh năm 1950 ở huyện Giang Du, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc, khi 4 tuổi đã học võ công do một cao thủ vô danh truyền dạy như một sự tình cờ , đến 8 tuổi theo học Hải Đăng pháp sư ( đồng môn với Phạm Ứng Liên). Tiếp sau đó, Nghiêm Tân lần lượt luyện công học võ với hơn hai mươi vị sư phụ của nhiều môn phái khác, điều đặc biệt là ông đã biết kết hợp sở trường của từng môn phái và dần hình thành công phu đặc sắc độc đáo của riêng mình. Năm 13 tuổi, ông đã có khả năng phát ra ngoại lực để chữa bệnh cho người. Năm 1974, Nghiêm Tân được đào tạo một cách hệ thống kiến thức lý thuyết, thực hành của Đông y và Tây y tại Học viện Y khoa Thành Đô và được phép hành nghề chữa bệnh. Những ca chẩn đoán và chữa bệnh của ông đã được các nhà khoa học và nhiều bệnh viện của Trung Quốc theo dõi nghiên cứu và công nhận, thường đạt kết quả rất nhanh và chính xác, được mô tả như những kỳ tích, như trường hợp chỉ trong hai mươi phút "phát công" đã làm liền xương bả vai bị gãy rời, vỡ vụn do tai nạn lao động cho anh công nhân Túc Bình(1)

1.1.2 Võ sư Bùi Long Thành (Việt Nam)

Võ sư – khí công sư Bùi Long Thành là một người thực hành và đào tạo khí công theo trường phái động công ở Việt nam. Năm 1993, Bùi Long Thành kết hợp với Liên hiệp công nghệ tin học ứng dụng (UIA) thành lập Trung tâm nghiên cứu khí công dưỡng sinh Việt Nam với mục đích phổ biến và đào tạo Khí Công Dưỡng Sinh Dân Tộc (KCDSDT).Trong những năm 1993-1995 Trung tâm đã tổ chức được trên 100 lớp KCDSDT tại Hà nội, Hải dương, Nam định, Ninh bình, Huế, Nha trang, Phan thiết, Phan rang …với hàng vạn người đã tin tưởng, say mê rèn luyện và hàng nghìn trường hợp cụ thể đã giảm bệnh, khỏi bệnh, kể cả những loại bệnh nan y. Hàng trăm bài báo, hàng chục chương trình phát sóng trên các đài Truyền hình Trung ương và địa phương, Đài Tiếng nói Việt Nam ... đăng tải, luận bàn về phương pháp KCDSDT, khiến cho phương pháp này trở thành sự kiện nổi bật, được dư luận xã hội, quần chúng nhân dân ngưỡng mộ. Tuy nhiên do nhiều lý do khách quan và chủ quan cả về nhân sự, tổ chức cũng như lý luận mà phong trào học tập KCDSDT đã dần đi vào thoái trào. Gần đây Bùi Long Thành vẫn tổ chức một số lớp đào tạo khí công và chữa bệnh tại Tp Hồ Chí Minh và một số địa phương nhưng với qui mô nhỏ hơn.

1.1.3 Một số nhân vật khác của trường phái khí công - dưỡng sinhchữa bệnh:

- Ông Lý Hồng Chí (Trung quốc): Người đứng đầu trường phái Pháp luân công hiện đang rất thịnh hành và có hàng triệu người tham gia luyện tập ở nhiều nước trên thế giới ( Bị cấm hoạt động ở Trung Quốc).

- Ông Hoàng Vũ Thăng ( Việt nam ): Trưởng môn Tĩnh công

- Ông Đỗ Vạn Thông ( Đức phổ Quảng ngãi Việt nam ): Đỗ Vạn Thông còn được gọi là ông Tứ. Cách chữa bệnh của ông là dùng công năng khí công và đã có rất nhiều kỳ tích trong chữa bệnh và biểu diễn.(2) Tuy nhiên chưa có khảo cứu chính thức về nhân vật này.

- Ông Võ Hoàng Yên: Sinh năm 1975, ngụ ấp Cái Nước, thị trấn Cái Nước, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau. Phương pháp chữa bệnh của ông là bấm huyệt kết hợp khí công. Hiện nay đang có rất nhiều bài báo in và báo điện tử viết về nhân vật này trong đó có những ý kiến ca ngợi ông như một “thần y” có thể chữa bách bệnh, cũng có một số báo khác có ý kiến phản biện cho rằng đó chỉ là phương pháp bấm huyệt thông thường của Y học cổ truyền và chỉ có thể chữa được một số căn bệnh nhất định.

- Cố giáo sư Nguyễn Văn Hưởng và Cố giáo sư Nguyễn Khắc Viện với phương pháp chữa bệnh và tăng cường sức khỏe bằng dưỡng sinh năng lượng. Hiện nay vẫn còn rất nhiều người học tập và làm theo phương pháp này do tính dễ phổ biến, dễ tập và hiệu quả của nó.

Được biết ở Việt Nam hiện nay còn có rất nhiều nhà võ sư có khả năng khí công thâm hậu nhưng vì nhiều lí do khác nhau mà họ thường “mai danh ẩn tích” nên ít người biết đến. Trái lại, cần thận trọng với thông tin có một số người tuy khả năng có hạn nhưng lại vì mục đích nào đó mà thổi phồng khả năng của mình. Cũng đã có một số trường hợp chủ động mời các nhà khoa học kiểm chứng khả năng đặc biệt của mình nhưng sau đó bị phát hiện là do hoang tưởng mà có.

1.3. Chữa bệnh bằng Nhân điện

Hiện nay ở Việt Nam và một số quốc gia khác như Thái Lan, Úc, Sri Lanca … đang thịnh hành phương pháp chữa bệnh bằng Nhân điện. Đây là một phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc, được cho là sử dụng năng lượng sinh học của con người.

Mặc dầu Nhân điện đã được một số nhà nghiên cứu đề cập đến từ lâu nhưng cộng đồng nhân điện thừa nhận Ngài Dasira Narada (1846-1924) người Srilanca là sư tổ của họ. Ông đã có 18 năm tu học trên dãy Hy mã lạp sơn sau đó trở về quê hương thực hành chữa bệnh và truyền dạy cho mọi người. Một trong những học trò của ông là Narada Mahathera (1898- 1983), vào năm 1972 ông đã sang Việt Nam và truyền dạy cho một số người Việt.

Những người thực hành phương pháp nhân điện là những người đã được đào tạo qua một số cấp học nhất định, theo đó họ có khả năng thu năng lượng của vũ trụ và vật chất xung quanh để chuyển hóa thành năng lượng sinh học của bản thân. Khi năng lượng đã cao và thông thạo cách sử dụng thì có thể nâng cao sức khỏe, tự chữa bệnh và chữa bệnh cho người khác bằng cách truyền năng lượng qua những luân xa. Hiện nay trên toàn thế giới có khoảng 3 triệu người theo học và thực hành Nhân điện. Phương pháp chữa bệnh này được một số quốc gia cho phép nghiên cứu và hoạt động như là một ngành Y học bổ xung, nhưng ở nhiều nước khác nó lại chưa được công nhận và chưa cho phép phổ biến trong cộng đồng.

Theo các nghiên cứu đã công bố, hiệu quả chữa bệnh của nhân điện có thể tóm lược trong một số nội dung sau:

· Giúp cơ thể phục hồi tình trạng nguyên thuỷ của nó, điều hòa cân bằng hệ thống nội tiết và thần kinh – thể dịch

· Giúp tăng cường hệ thống miễn dịch của cơ thể, từ đó làm tăng sức đề kháng và kích thích cơ chế tự chữa bệnh của cơ thể.

Như vậy nhân điện nếu được sử dụng đúng mục đích và phương pháp có thể hỗ trợ tốt cho quá trình chữa bệnh và có thể chữa lành một số căn bệnh nhẹ thông thường.

Một số người thực hành chữa bệnh bằng nhân điện:

- Ông Huỳnh Văn Trạng còn có tên Huynh Hai (đã chết năm 2005).

- Ông Nguyên Văn Chiều ở Gia lâm Hà Nội (đã mất).

- Ông Lương Minh Đáng: Là Việt kiều ở Úc. Ông là tác giả nhiều cuốn sách và tài liệu về nhân điện, đã mở nhiều lớp đào tạo nhân điện ở nhiều nước trên Thế giới như Mỹ, Úc, Thái Lan, Srilanca và Việt Nam …và có rất đông học viên theo học. Ông đã chết năm 2007 tại Melbourne ngay khi đang dùng nhân điện điều trị cho một bệnh nhân. Ngày nay các chương trình đào tạo nhân điện vẫn được duy trì do vợ của ông là bà Nguyễn Thu Thủy và con trai Lương Minh Trung đảm nhiệm. Trường phái này có cả một Phân Khoa Trị Liệu bằng Năng Lượng Con Người và Vũ Trụ tại Trường Đại Học Quốc Tế Mở Rộng Y Học Bổ Sung có trụ sở tại Colombo – Srilanca (xem tham khảo 1)

- Ông Nguyễn Đình Phư: Là tiến sĩ toán lý, Phó Giáo sư trường ĐH tổng hợp TP HCM. Ông từng theo học Thầy Lương Minh Đáng từ năm 1989, sau đó có nghiên cứu mở rộng thêm lý thuyết theo hệ thống kinh lạc của Đông y. Ông đã xuất bản nhiều sách trong đó có cuốn "Nhân điện - những phát hiện và ứng dụng" (Nhà xuất bản văn hoá thông tin - 1999).

Hiện nay ở Việt Nam còn có rất nhiều người vẫn đang nghiên cứu và thực hành chữa bệnh bằng nhân điện. Có nhiều người ca ngợi lợi ích của phương pháp trong cộng đồng, nhưng cũng có những ý kiến phản biện xung quanh vấn đề phân tích cơ sở khoa học và hiệu quả thực tiễn của phương pháp.

1.4. Một số trường hợp chữa bệnh bằng NLSH khác:

- Bà Barbara Ann Brennan (Mỹ ): Là chuyên viên khoa học của Trung tâm phi hành thuộc cơ quan hàng không vũ trụ Hoa Kỳ NASA, là nhà chữa trị thực hành, nhà tâm lý trị liệu. Bà đã dùng khả năng thấu thị của mình để chẩn đoán và chữa bệnh cho hàng vạn người bằng cách truyền năng lượng qua hai bàn tay . Những kinh nghiệm của bà đã được bà viết trong cuốn sách nổi tiếng Hands of Light – A Guide to Healing Through the Human Energy Field ( Bản dịch tiếng Việt có tên Bàn tay ánh sáng )

- Kaspirovsky ( Nga ): Là một người nổi tiếng ở Nga ngay từ thời Liên xô cũ, khi mà ở đó chủ nghĩa duy vật là thống soái. Ông đã từng được đưa lên đài truyền hình để phát năng lượng chữa bệnh cho mọi người. Có nhiều phản ứng khác nhau khi xem kênh truyền hình của ông. Một số người không ủng hộ cho rằng hiệu quả có được qua hiện tượng này là một dạng tự kỷ ám thị.

- Yulia Vorobiova sinh năm 1947 ở ở thành phố Donetsk thuộc Ucraina (Liên Xô cũ) được cứu sống sau khi chết lâm sàng do bị dòng điện 380 vol tác động, đã có năng lực siêu phàm. Bà có khả năng nhìn thấy các cơ quan nội tạng trong cơ thể người đối diện, có thể biết được tình trạng bình thường hay bệnh tật trong cơ thể. Bà cũng chữa bệnh bằng cách truyền năng lượng.

- Ông Vũ Bội Quang Khôi (Việt kiều hiện ở Mỹ từ năm 1980): Ông hiện được một đài phát thanh ở Orange County thuộc tiểu bang California phát sóng 2 buổi trong một tuần để chữa bệnh cho người nghe. Phương pháp của ông được gọi là “Tâm pháp” hay chữa bệnh bằng “Sức mạnh tư tưởng”, người bệnh được hướng dẫn tự chữa bệnh và nạp năng lượng bằng hướng dẫn qua lời nói trực tiếp của ông hoặc qua radio hay băng ghi hình. Điều kiện cần thiết là người bệnh phải có lòng tin và một “cái tâm” trong sáng, một số nhân chứng cho là cách chữa bệnh của ông rất có hiệu quả.

II. NHỮNG NGƯỜI CHỮA BỆNH DỊ THƯỜNG

Trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại, ở khắp nơi trên Thế giới đã xuất hiện những phương thuật chữa bệnh kỳ lạ do một nhóm người hay những cá nhân đặc biệt thực hiện. Điều đó thường được kể lại trong những truyền thuyết, huyền thoại, được ghi chép trong sử sách hoặc truyền khẩu. Những cách chữa bệnh như vậy có điểm chung là không thể giải thích được theo khoa học hay những tri thức thông thường, chúng thường được gán cho những tên gọi như huyền bí, ma thuật, phù thủy, mê tín … gần đây có thêm một số khái niệm như: chữa bệnh bằng tâm linh, chữa bệnh bằng lòng tin, chữa bệnh bằng ngoại cảm, chữa bệnh bằng tinh thần, ám thị

Cũng chính vì sự huyền bí nêu trên mà những hình thức chữa bệnh này thường không được các nhà quản lý xã hội công nhận. Thế nhưng trong thực tế đời sống, những hình thức chữa bệnh đó vẫn tồn tại và thu hút rất đông người bệnh tin tưởng và thực sự đã có rất nhiều người bệnh được chữa khỏi bằng những phương cách đó. Ở đây cũng cần nói thêm rằng chính vì có sự huyền bí đó mà có một số người dù có khả năng thật sự hay không có khả năng đã lợi dụng việc chữa bệnh và lòng tin của người bệnh để lừa đảo trục lợi (về kinh tế hay danh lợi …).

Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, trong quá khứ và hiện tại có nhiều nhân vật nổi tiếng về cách chữa bệnh dị thường nêu trên. Sau đây xin nêu một số nhân vật trong đó.

2.1. Thiền sư Nguyễn Chí Thành (1076-1141):

Là thiền sư đời thứ 12 dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi. Ông quê ở làng Loại Trì, huyện Chân Định, tỉnh Nam Định. Năm hai mươi chín tuổi, ông cùng Giác Hải, Đạo Hạnh sang Thiên Trúc học đạo, sau đó về quê xây chùa Diên Phước. Ông được biết đến nhiều hơn với tên gọi Thiền sư Minh Không (hay Khổng Minh Không), ông cũng được tôn vinh là ông tổ nghề đúc đồng ở Việt nam. Có nhiều huyền thoại về các phép màu và thuật chữa bệnh của ông, trong đó có chuyện ông dùng phép thuật chữa bệnh hóa cọp cho vua Lý Thần Tông. Ngày nay vẫn còn đền thờ ông tại phố Lý Quốc Sư Hà Nội. (4)

2.2. Ông Edgar Cayce (1877-1945):

Nhà tâm linh người Mỹ, sinh ở Hopkinsville bang Kentucky. Ngay từ nhỏ ông đã có khả năng tâm linh như nhìn thấy những sinh vật phi vật thể, thấy hào quang của người khác. Mặc dầu không học hết cấp 2 và không được học qua nghề y nhưng những ca chẩn đoán bệnh của Cayce được đánh giá chính xác đến 90%. Cayce thường khám bệnh trong trạng thái tự thôi miên, ông có thể biết được kiếp trước của người bệnh và đưa ra lời khuyên về phương pháp chữa bệnh căn cứ vào “nghiệp” của người đó ( xem tham khảo2).

2.3. Cặp vợ chồng Ambrose Worrall (1899-1972) và Olga Nathalie Ripich (1906-1985):

Ambrose là người Mỹ gốc Anh còn Olga là người gốc Nga. Họ là những người bẩm sinh đã có khả năng thấu thị và một số khả năng tâm linh khác (nghe rõ, xuất hồn …). Dưới sự trợ giúp của một số người khác họ đã có cả một bệnh viện tư chữa bệnh bằng tâm linh tại vùng núi Vernon ở Bantimore. Việc chẩn đoán và chữa bệnh của họ thường liên quan đến việc giao tiếp với hồn ma người chết là bà con thân thuộc với người bệnh. Hiện tượng chữa bệnh của họ đã là đối tượng nghiên cứu của nhà cận tâm lý J.B Rhine (5)

2.4. Cụ Nguyễn Đức Cần: (Cụ còn có danh xưng là cụ Trưởng Cần, sinh ngày 29/12/1909, mất ngày 13/07/1983 ở thôn Đại Yên, phường Ngọc Hà, quận Ba Đình – Hà Nội).

Được theo học một vị thầy huyền bí từ khi còn ít tuổi, sau nhiều năm theo thầy đi khắp nơi đề học nghề và chữa bệnh, cụ về quê và bắt đầu chữa bệnh cho mọi người từ cuối những năm 40 và được nhiều người biết đến vào những năm 70 của T.K trước. Phương pháp chữa bệnh của cụ rất đặc biệt và cho đến nay vẫn chưa được lý giải cặn kẽ. Cụ đã chữa khỏi bệnh cho hàng vạn người với đủ các loại bệnh khác nhau mà không dùng đến thuốc, thậm chí không tiếp xúc với người bệnh.

Do những rào cản về nhận thức và nhân sinh quan thời đó, phương pháp chữa bệnh của cụ từng bị coi là mê tín dị đoan, lừa bịp, ma thuật, phù thủy …Tuy nhiên trong thực tế, Cụ là một con người hiền hậu, sống giản dị , có tình thương bao la với mọi người, không cầu danh lợi. Đã có nhiều nhà nghiên cứu, các giáo sư, bác sĩ, các nhà khoa học tìm hiểu cách chữa bệnh, nhiều bài báo đăng tải những kỳ tích chữa bệnh và đạo đức của Cụ. Tập hợp những nghiên cứu đó, vào năm 2009 nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Cụ, NXB Văn hóa - Thông tin đã xuất bản cuốn “ Nguyễn Đức Cần – Nhà văn hóa tâm linh” do nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải và Nguyễn Tài Đức biên soạn ( đã tái bản năm 2010).

Có ba phương pháp chữa bệnh mà Cụ thường sử dụng:

- Tác động bằng lời nói

- Dùng tờ đạo

- Điều khiển bằng tay

Tùy từng trường hợp khác nhau mà Cụ Nguyễn Đức Cần đã dùng một trong những cách trên hoặc kết hợp các cách đó với nhau để chữa bệnh và đều đạt được hiệu quả. Ngoài chữa bệnh Cụ còn có khả năng dự đoán một số sự kiện mà sau này được kiểm chứng là chính xác.

Có nhiều người tìm cách giải thích cơ chế và phương pháp chữa bệnh của Cụ nhưng cho đến nay vẫn chưa có sự giải thích nào là thỏa đáng. Ngay lúc còn sống Cụ cũng không nói rõ về phương pháp chữa bệnh của mình. Hiện nay vùng đất đặt ngôi mộ của Cụ ở tại làng Thanh Mai huyện Thanh Oai Hà Nội được rất nhiều người đến thăm viếng, nhiều người cho rằng khu đất này cũng có năng lượng chữa bệnh rất kỳ lạ( xem tham khảo 3)

2.4. Cô Phạm Thị Phú

Cô Phú sinh năm 1972, hiện ở tại thị xã Sông Công, tỉnh Thái Nguyên. Bắt đầu từ vài năm trước, sau một số biến cố về tình cảm gia đình, đã từng bị coi là mắc bệnh tâm thần và phải nhập viện điều trị. Sau khi ra viện cô nhận thấy mình có một số khả năng khác thường trong một số lĩnh vực thuộc vấn đề tâm linh, trong đó có khả năng chữa được bệnh tật cho một số người mà theo cô là do có sự trợ giúp của thế giới vô hình. Tin đồn về khả năng chữa bệnh của cô đã nhanh chóng lan rộng, có thời điểm mỗi ngày có tới hàng trăm người bệnh từ khắp nơi tìm đến nhờ cô khám chữa bệnh và giải quyết một số nhu cầu tâm linh khác. Hiện tượng chữa bệnh của cô Phú đã được đăng tải trên nhiều tờ báo với những góc nhìn khác nhau, trong đó không ít bài báo có tính phê phán, nhưng trên thực tế lượng người bệnh tìm đến nhờ cô chữa bệnh vẫn không giảm. Hình thức chữa bệnh của cô là vô thức (tự ám thị) và cho một vong mượn xác nhập đồng để chữa bệnh, giải hạn và cung cấp thông tin (theo cô Phú đó là vong của một người con đã mất, thường gọi là Cò), cô thường không nhớ, không biết sau tiến trình chữa bệnh. Có nhiều nhân chứng là các bệnh nhân đã được cô chữa khỏi hoặc đỡ bệnh, kể cả một số trường hợp mắc bệnh nặng, lâu ngày. Trung tâm nghiên cứu tiềm năng của con người hiện đang có đề tài nghiên cứu về trường hợp này.

2.5. Những nhà phẫu thuật tâm linh ( Psychic Surgery) ở Philippines

Ở khu vực gần thành phố Bagio phía bắc Philippines có một bộ lạc thổ dân mà tại đó có những “nhà phẫu thuật không dao mổ thần bí” (thường được gọi là các Healer - nghĩa là người chữa bệnh) đã gây xôn xao dư luận .

Những người này là có khả năng tiến hành những ca phẫu thuật phức tạp mà không hề dùng đến bất kỳ một thứ gì khác ngoài đôi bàn tay. Sau khi thực hiện một số nghi lễ tôn giáo, cuộc “phẫu thuật” diễn ra ngoài trời trước sự chứng kiến của rất nhiều người. Trong một trạng thái xuất thần giống như bị thôi miên, trong vòng khoảng từ 1 đến 10 phút, không hề có một thao tác khử trùng cần thiết nào, họ chỉ cần dùng những ngón tay có thể dễ dàng rạch da thịt người bệnh, đưa tay sâu vào trong cơ thể và lấy ra cơ quan bị bệnh hay một khối u nào đó. Trong quá trình phẫu thuật dù có máu chảy, nhưng ngay khi Healer rút tay ra khỏi vết thương thì trên cơ thể bệnh nhân lại hầu như không phát hiện một chút dấu vết nào, thậm chí ngay cả một vết sẹo nhỏ, người bệnh cũng không hề cảm thấy đau đớn ngoài một cảm giác căng tức ở vùng mổ. Chừng 30 phút sau là bệnh nhân có thể đứng dậy hoạt động bình thường.

Phẫu thuật tâm linh đã tạo nên cơn sốt chữa bệnh dị thường tại Philippines, Mỹ và nhiều nước khác từ những năm 1959 đến sau năm 1970. Người ta đã thống kê có khoảng 400 Healer hành nghề, một số Healer trở nên nổi tiếng như: Eleuterio Terte, Emilio Lemes, Fiorentino Rino, Alex Orbito … tuy nhiên có lẽ trong số đó chỉ có 1 số ít người là có khả năng thực sự và đã được kiểm chứng, nhiều người khác bị phát hiện là dùng xảo thuật lừa đảo, như trường hợp “thần y ” Alex Orbito từng bị bắt bỏ tù tại Canada. Nhiều nhà khoa học và các chuyên gia y tế đã tìm cách nghiên cứu và giải thích hiện tượng phẫu thuật tâm linh nhưng cho đến nay vẫn chưa có ai đưa ra được lời giải thích thuyết phục về mặt khoa học (xem tham khảo 4.)

2.6. Tại nhiều vùng núi, nơi cư trú của các đồng bào dân tộc thiểu số của Việt nam có những ông Lang, bà Mế cũng có những cách chữa bệnh mang tính thần bí như dùng ngải, hèm, thổi lá trầu, ống hút… Những trường hợp này thường là những người “có tiếng” ở một phạm vi hẹp trong vùng dân tộc đó do hạn chế về điều kiện kinh tế xã hội và không gian giao lưu. Họ cũng có đóng góp đáng kể trong việc chữa bệnh cho đồng bào của họ. Một số người cũng đã được thông tin rộng rãi do có được “biệt tài” về chữa một loại bệnh nào đó, như trường hợp "Ma hút" Lường Văn Hối và con rể ông là Vi Văn Cán ở huyện Sông Mã tỉnh Sơn La có khả năng hút được các đầu đạn hay dị vật găm trong người và chữa lành các vết thương mà chỉ dùng đến dụng cụ là một chiếc ống tre và một số thủ tục có tính ma thuật. Cụ Đoàn Văn Nhâm (xã Nhân Thành, Yên Thành, Nghệ An) nổi tiếng về thuật chữa hóc xương bằng bí quyết gia truyền. (6)

III. NHỮNG VÙNG ĐẤT THIÊNG CÓ KHẢ NĂNG CHỮA BỆNH

Trên thế giới đã và đang tồn tại nhiều vùng đất linh thiêng rất nổi tiếng, hàng năm thu hút hàng trăm ngàn người hành hương từ khắp mọi nơi. Những vùng đất này thường được nhân gian gọi là những vùng đất Thánh. Đó có thể là thánh địa của một số tôn giáo như: Jerusalem – một trong những thành phố lâu đời nhất thế giới, là vùng đất thiêng hội tụ của 3 tôn giáo lớn là Hồi giáo, Thiên chúa và Do Thái; Thánh địa Mecca (hay Makkah) của những người theo đạo Hồi; Sông Hằng (Ganga) ở Ấn Độ, vào dịp lễ mỗi năm thu hút hàng triệu người theo đạo Hindu đến đây để gột rửa tội lỗi và chữa bệnh. Tương tự như vậy còn rất nhiều những vùng đất khác như: Các hang động Ajanta ở Ấn độ, Khu đền Delphi ở Hy Lạp, bãi đá Stonehenge và bãi đá Callanish ở Anh, Khu đền Ziggurat ở thành phố Ur – Iraq, một số địa danh ở Tây Tạng như núi Kailash. Khu vực Đông Nam Á cũng có một số địa danh như Borobudur (Indonesia), Pagan (Myanma), Angkor Wat (Campuchia) và Ayutthaya (Thái Lan) …

Ở Việt Nam cũng có nhiều vùng đất được coi là đất thánh như: Thánh địa Mỹ Sơn, vùng núi Thất sơn (Quảng nam), vùng núi Yên Tử (Quảng Ninh), núi Tản Viên – Ba vì Hà Nội, khu vực đền thờ các vua Hùng (Phú Thọ) …

Những địa danh được gọi là vùng đất thánh có sức thu hút đông đảo khách hành hương như vậy là do ngoài vấn đề thỏa mãn những nhu cầu tâm linh, tôn giáo còn có nhiều lý do khác như khám phá, du lịch đơn thuần … nhưng có một lý do khác khá phổ biến là nhiều khách hành hương trước khi đến đây có mang trong mình một số tật bệnh và khi trở về bệnh tật đã biến mất hoặc chuyển biến rõ rệt. Đây là một thực tế có thật và có rất nhiều câu chuyện cụ thể với nhân chứng cụ thể đã được kiềm chứng.

Nhiều nhà khoa học và cả các nhà nghiên cứu tâm linh đã tìm cách “giải mã” khả năng chữa bệnh của các vùng đất linh thiêng bằng nhiều góc nhìn khác nhau. Tuy vậy chưa có một địa danh nào được tìm ra nguyên nhân thực sự của của những điều kỳ diệu đó. Có thể liệt kê một số khuynh hướng giải thích như sau:

- Do cấu trúc địa chất đặc biệt trong lòng đất có chứa các nguyên nhân , chẳng hạn như quặng sắt, gây ra tại khu vực một điện từ trường mạnh.

- Thành phần của nước trong khu vực có chứa nhiều khoáng chất và nguyên tố vi lượng có lợi cho sức khỏe.

- Không khí trong lành có chứa nhiều ion âm

- Do cơ chế tự chữa bệnh của cơ thể: Khỏi bệnh là do lòng tin, ám thị tập thể.

- Do có sự can thiệp của một đấng tối cao: Thượng đế, Chúa, Thánh, Đức mẹ …

- Nơi qui tụ của năng lượng vũ trụ có được do những yếu tố tự nhiên ( phong thủy) hay nhân tạo (công trình xây dựng như tượng đài, kim tự tháp …) tạo nên các vị trí được gọi là khí tụ, long mạch, huyệt …

Bên cạnh những vùng “đất tốt” đó cũng có rất nhiều vùng đất được gọi là “vùng đất chết”. Nơi đó ẩn chứa những yếu tố nguy hại cho sức khỏe con người như phóng xạ, khí độc, ô nhiễm và nhiều yếu tố khác.

Sau đây xin nêu 2 địa danh khá nổi tiếng ở Pháp và Việt Nam.

3.1. Suối thiêng vùng Luordes (Pháp):

Từ chỗ chỉ là một thị trấn có dòng suối nhỏ ở miền Nam nước Pháp, ngày nay vùng Lourdes đã trở thành một địa danh nổi tiếng. Chuyện bắt đầu xảy ra vào tháng 3 năm 1858, khi có tin đồn Đức Mẹ nhập vào một cô gái Pháp tên Margrette và phán truyền: "Ta ban cho các con nguồn nước suối màu nhiệm này để làm dịu bớt phần nào nỗi khổ đau trên thế giới". Được tin, vị cha xứ của địa phận với ý niệm đây là nguồn nước thánh đã thử dùng nước suối để nhỏ mắt cho một thanh niên bị mù tên là Sactơlê. Điều thần kỳ đã xảy ra khi ngay sau đó người thanh niên này đã sáng mắt trở lại. Một số người bệnh khác cũng có kết quả tương tự, như cô gái Charlotte bị liệt đã thấy khỏe ra và đi lại bình thường sau khi uống nước suối Lourdes.

Tin tức được lan truyền và thu hút mọi người từ khắp nơi đổ về đây để chữa bệnh và nghiên cứu tìm hiểu. Các tài liệu nghiên cứu và ghi chép lại cho thấy rất nhiều người bệnh với đủ các loại bệnh tật khác nhau khi đến đây uống nước và rửa ráy tại dòng suối đã khỏi bệnh một cách khó tin.

Chính quyền địa phương đã tổ chức và khai thác rất tốt địa điểm này, họ đã biến nơi đây thành một địa chỉ du lịch nổi tiếng không chỉ ở nước Pháp mà gần như khắp thế giới. Không chỉ có tên trên bản đồ du lịch Thế Giới, khi đến Pháp người ta dễ dàng tìm thấy các biển báo giúp tìm đường đến Lourdes. Ngay trên các bức tường của Nhà thờ xứ, người ta gắn rất nhiều bảng ghi dòng chữ : "Con hãy đến uống và rửa ở suối này" với nhiều ngôn ngữ khác nhau (trong đó có tiếng Việt). Hiện nay mỗi năm có hàng vạn người từ khắp nơi trên thế giới đổ về khiến nơi đây trở nên sầm uất, náo nhiệt vì người đến cầu xin chữa bệnh, lấy tin tức, khảo cứu ... (Xem Tham khảo5)

3.2. Khu vườn Long An

Nằm trên mảnh đất có địa chỉ tại số 370 ấp Tân Hội, xã Đức Lập Thượng, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, thuộc sở hữu của gia đình ông Nguyễn Văn Sống và bà Võ Thị Ngoan trong đó có người con gái là chị Nguyễn Thị Kim Hồng. Khu vườn có diện tích khoảng 2.000 m2 trong đó hiện có ngôi nhà của gia đình cư trú và đang trồng nhiều cây ăn trái.

Được mệnh danh là “Khu vườn kỳ lạ”, câu chuyện của Khu vườn Long An gần giống như câu chuyện xảy ra tại con suối thiêng ở vùng Luordes của Pháp nêu trên. Theo nhiều nguồn thông tin có thể dễ dàng tham khảo trên các báo in và báo điện tử, người ta bắt đầu biết đến khu vườn từ năm 2003, khi người trong gia đình và một số người xung quanh khu vườn nhận thấy những người sinh sống ở đây đều rất khỏe mạnh và một số bệnh tật tự nhiên không chữa mà khỏi. Từ đó nhân dân giới thiệu nhau đến đây chữa bệnh ngày càng đông, họ chỉ cần đến nghỉ ngơi hoặc ngồi thiền tại khu đất này là có thể tự chữa bệnh mà không có một tác động nào khác. Hiện mỗi ngày có tới hàng trăm người đến đây với mục đích chữa bệnh và tìm hiểu nghiên cứu. Thực tế là có người sau khi đến đây đã tự khỏi bệnh một cách nhẹ nhàng, thậm trí có nhiều người đã được các bệnh viện chỉ định điều trị bằng phẫu thuật hay nội khoa nhưng họ vẫn bỏ điều trị để đến đây và bệnh cũng thấy khỏi hoặc chuyển biến rõ rệt.

Vào năm 2005 đã có một số đoàn nghiên cứu bao gồm các nhà khoa học về địa chất, môi trường và các bác sĩ … do Bộ y tế và địa phương thành lập đã đến đây khảo sát nghiên cứu. Nhiều phóng viên các báo đài đã viết bài nói về khu vườn này. Các kết luận điều tra cũng như báo chí tập trung vào một số nội dung chính sau:

- Có hay không hiệu quả chữa bệnh của khu vườn này. Nếu có thì đâu là cơ sở khoa học.

- Đây có thuộc vấn đề “mê tín dị đoan” hoặc lợi dụng để kinh doanh trục lợi.

- Việc tập trung đông người có gây mất an ninh trật tự và ảnh hưởng vệ sinh môi trường trong khu vực.

- Những người ủng hộ việc duy trì hoạt động của khu vườn thì cho rằng các nhà khoa học cần chứng minh hiệu quả rõ ràng với những bằng chức khách quan, cần kêu gọi mọi người cùng góp sức để tổ chức các hoạt động cho có hiệu quả, tránh gây ra những ảnh hưởng xấu đến môi trường và an ninh trật tự tại địa phương. Coi đây là một tài sản quý của đất nước cần được bảo vệ và khai thác hiệu quả, như cách tổ chức của người Pháp đối với vùng suối Lourdes. (xem tham khảo 6)

IV. KẾT LUẬN

Lịch sử văn minh của loài người đã trải qua hàng ngàn năm với biết bao điều kỳ diệu. Từ chố “ăn lông ở lỗ”, ngày nay con người đã thành tựu hầu hết những ước mơ của tổ tiên: Bay lên vụ trụ, lặn xuống biển sâu, kho tàng tri thức của loài người về mọi lĩnh vực tự nhiên và xã hội đã và đang được bổ xung với một tốc độ nhanh chưa từng thấy, nhất là trong khoảng vài trăm năm trở lại đây, khi mà con người đã làm chủ được các ngành Khoa học: vật lý, hóa học, sinh học, y học, triết học … Ngày 01/11/2011 đánh dấu mốc lịch sử : 7 tỷ người đang hiện hữu trên hành tinh của chúng ta. Chúng ta khác với tổ tiên là ngày nay nhờ có các phương tiện giao thông, các phương tiện thông tin và vô vàn các tiện nghi khác đã giúp cho mọi người ở mọi nơi trên thế giới có thể tiếp xúc và chia sẻ cho nhau bất kỳ khi nào.

Với tốc độ phát triển như vậy, chắc chắn không còn bao lâu nữa, những điều mà hôm nay còn là bí ẩn của tự nhiên và sự sống, trong đó có những bí ẩn thuộc về con người và môi sinh đã nêu trên sẽ được loài người giải mã. Nhất là ngày nay, khi mà ở nhiều quốc gia, các ngành Khoa học hiện đại và Khoa học tâm linh đã tìm thấy tiếng nói chung. Tất cả là nhằm vào mục tiêu phục vụ đời sống của con người.

Chú thích
(1) Thẩm Chưởng Vinh – “ Con người - những điều kỳ diệu” Người dịch: Thành Đăng Khánh - NXB Văn hóa thông tin Hà Nội 2003 tr,351-352
(2) Theo tác giả Cao Hùng - “ Chuyện lạ có thật về một con người ” (NXB Lao Động xuất bản năm 2006)
(3) Thích Bảo Nghiêm - Lịch sử chùa Lý Triều Quốc Sư
http://daitangkinhvietnam.org/van-hoc-va-nghe-thuat/kien-truc-phat-giao/
(4) Rosemary Ellen Guiley- Từ điển tôn giáo và các thử nghiệm siêu việt. NXB Tôn giáo 2005- tr. 948-949

Tham khảo
1. Các bài viết về Nhân điện trên Website: http://nangluongcuocsong.com.vn/
2. Nguyễn Hữu Kiệt- Những Bí Ẩn Của Cuộc Đời - sách eBooks
3. Nguyễn Phúc Giác Hải và Nguyễn Tài Đức- “Nguyễn Đức Cần – Nhà văn hóa tâm linh” - NXB Văn hóa - Thông tin 2010
4. Thẩm Chưởng Vinh – Con người những điều kỳ diệu. NXB Văn hóa thông tin 2003)
5. Bí ẩn dòng suối thánh Lourdes
http://www.khoahoc.com.vn/khampha/1001-bi-an/1974_Bi-an-dong-suoi-thanh-Lourdes.aspx
6. Quốc Dũng - Đâu là sự thật về hoạt động nghiên cứu tại “Khu vườn lạ Long An”? báo Tiền phong Online số ngày 07/05/2005

Sunday, December 18, 2011

GIỮ GÌN KHẢ NĂNG NGOẠI CẢM


Nhà nghiên cứu Đoàn Thanh Hương

Khả năng chữa bệnh không dùng thuốc, xuất phát từ bản năng sinh tồn của muôn loài, tất cả đều có cơ chế bẩm sinh tự điều chỉnh khỏi bệnh, là một đặc trưng nhất của khả năng bảo tồn nòi giống. Do nhiều tác động xấu trái ngược thiên nhiên, mà cơ chế tự điều chỉnh bị yếu ớt, bệnh tật phát sinh, thậm chí có bệnh vô phương cứu chữa. Đã có những tác động tích cực để cơ chế tự điều chỉnh mạnh mẽ lên, khỏi bệnh thông thường và một số bệnh hiểm nghèo. Những tác động tích cực đó thật quý báu, gồm 4 lĩnh vực chính:

1. Tác động của nhà ngoại cảm.
2. Tác động của môi trường Địa Linh.
3. Tác động của luyện tập dưỡng sinh.
4. Ăn uống dinh dưỡng hợp lý.

Trong 15 năm làm các đề tài nghiên cứu về tác động các lĩnh vực trên, chúng tôi thấy rằng: Có một số ca bệnh nan y hiểm hóc nhất, đã được chữa khỏi một cách suất sắc, đơn giản, không tốn kém, lại ít đau đớn, nhờ tác động của môi trường Địa linh, của nhà ngoại cảm, và luyện tập dưỡng sinh. Bệnh bình thường thì có nhiều cách chữa khỏi, có thể luyện tập hoặc bác sĩ kê đơn cho uống thuốc là khỏi bệnh. Riêng bệnh nan y còn nhiều liên quan Nhân quả, nghiệp lực, bệnh do vong âm …rất khó cứu chữa bằng thuốc, hầu như không thể chữa được. Những người có khả năng đặc biệt có thể tìm ra nguyên nhân và cách chữa trị, nếu đạt được tỷ lệ 30% khỏi bệnh nan y là quý lắm. Vì ở bệnh viện với phương tiện hùng hậu, có những bệnh như ung thư di căn, ung thư máu, chỉ đạt được tỷ lệ 1-5%, người ta vẫn theo đuổi chữa trị. Mỗi năm có 75.000 ca bệnh ung thư bị tử vong, hiện nay ung thư còn xuất hiện ở trẻ em và thanh niên, và tiếp tục nhiều chứng bệnh lạ, dịch bệnh mà khoa học không tìm ra nguyên nhân. Nhu cầu cấp thiết về khả năng chữa bệnh phi truyền thống, của nhà ngoại cảm, của môi trường địa linh, của luyện tập dưỡng sinh là rất cần thiết. Các nhà ngoại cảm giỏi có thể tìm ra nguyên nhân bệnh dịch lạ, tư vấn phòng ngừa…Trung tâm NCTNCN luôn bên cạnh sát cánh hợp tác với các nhà ngoại cảm, với những công trình nghiên cứu suốt 15 năm qua. Trong buổi giao lưu mạn đàm này, chúng tôi thấy cần thảo luận vấn đề: Làm thế nào giữ gìn phát triển khả năng ngoại cảm ?

Những người có khả năng ngoại cảm, từ thiên bẩm trời cho, không do mong muốn mà có. Gọi là khả năng đặc biệt, vì những người bình thường không thể làm được như vậy, một người có thể cứu được hàng ngàn người. Hơn nữa giá trị nhân đạo cao cả ở những trường hợp mất hết hy vọng, không còn cách nào giải quyết sự bế tắc khổ đau của người bệnh, của một gia đình, hoặc một chi họ. Khi đó với khả năng đặc biệt, nhà ngoại cảm có thể tìm ra nguyên nhân bí ẩn mà máy móc không thể tìm ra, và giúp đỡ giải quyết được thành công, đem lại niềm vui hạnh phúc tai qua nạn khỏi, đem lại sự bình yên cho nhiều gia đình. Sự đóng góp âm thầm của các nhà ngoại cảm góp phần quý báu cho an sinh xã hội. Vì vậy khả năng ngoại cảm cũng là một tài nguyên nguyên khí của đất nước, cần được chăm sóc và sử dụng đúng người đúng việc. Sở dĩ trong xã hội còn nhiều lời đồn đại không lành mạnh về các nhà ngoại cảm, vì rất nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ những kết quả không thành công, rồi phủ nhận vai trò nhà ngoại cảm, hầu như tất cả các nhà ngoại cảm đều phải chịu đựng sự o bế tinh thần. Người có khả năng vững vàng sẽ vượt qua những thử thách khắc nghiệt này. Vì vậy để giữ gìn phát triển khả năng ngoại cảm, trước hết cần sáng tỏ nguồn gốc khả năng ngoại cảm, để giữ gìn phát triển khả năng ngoại cảm.

Từ xa xưa nền văn hóa Phương Đông đã nói đến một phương tiện tinh hoa nhất vũ trụ, đó là năng lượng Prana. Chúng tôi lược trích tư liệu “Prana kỳ diệu với yoga: Thăng hoa và siêu phàm của nhân loại”: “Khi ta đã điều khiển được Prana, thì chẳng những ta có thể chế ngự các bệnh tật và đau đớn nơi ta, mà còn cho cả người khác nữa. Ai làm chủ được Prana, chế ngự được Prana, sẽ làm chủ được, chế ngự được thân xác và tinh thần của mình, cũng như của người khác, bởi vì Prana là sự thị hiện khái quát hóa của năng lượng...Những người chữa bệnh bằng đức tin (faith-healer), bằng tinh thần (mind-healer), những người thôi miên, các nhà thông thiên học, dự báo, điều động từ xa (télékinésie), khoa học Cơ đốc, các pháp sư, phù thủy, thày mo… đều chỉ là những người tình cờ khám phá ra Prana và sử dụng nó mà không rõ”. (Alnamach - Những nền văn minh thế giới. NXB VHTT. 1998).

Văn hóa Phương Đông phát hiện Prana là Năng lượng gốc khởi thủy đầu tiên tạo nên vũ trụ, có bản chất là năng lượng sạch nhất. Prana là chất liệu tạo nên hoạt động TINH THẦN và mọi sự VẬN ĐỘNG. “Tất cả các lực tinh thần hay vật lý đều chung một bản thể là Prana. Không thể nhận biết Prana trực tiếp vì nó rất vi tế, ta chỉ nhận biết được Prana một cách gián tiếp qua sự thị hiện của nó dưới mọi dạng năng lượng...”. Như vậy sức khỏe và tinh thần mỗi người, do tình trạng năng lượng Prana quyết định. Hết năng lượng Prana thì không còn suy nghĩ và cử động được, tức là sự chết. Nhà ngoại cảm được vũ trụ ban cho kênh dẫn Năng lượng Prana, để hỗ trợ giải quyết những trường hợp rất khó khăn bế tắc. Những trường hợp thông thường thì chúng ta nên tự lực giải quyết giải tỏa nghiệp lực của mình bằng sự phấn đấu tu rèn, luyện tập dưỡng sinh …

Đối với khoa học, nền Vật lý hiện đại với rất nhiều phương tiện tinh xảo không thể tìm được bóng dáng Prana, khoa học không biết cách sử dụng Prana. Nhưng văn hóa Phương Đông có lịch sử trên 5000 năm sử dụng năng lượng gốc Prana. Yoga Ấn độ có nhiều phương pháp tiếp cận, chế ngự Prana trong cơ thể, gọi chung là Pranayama.

Nhà ngoại cảm được Thiên phú rót năng lượng Prana, không cần luyện tập, được thụ nhận qua những kênh dẫn khác nhau, có năng lực khác nhau, do các vị thánh nhân hoặc linh hồn linh thiêng của người thân hỗ trợ. Khi được rót năng lượng Prana, phần lớn sẽ có sự thanh lọc xả hết uế trược trong sạch cơ thể, trong sạch hệ thần kinh. Lúc này có biểu hiện ốm đau thập tử nhất sinh, hoặc bệnh thần kinh, hoặc có chấn thương thức tỉnh Kundalini… Đây là lúc các chất ô nhiễm cấu uế được thải ra gấp rút, làm người đó khó chịu, ốm nặng, sau đó khỏe và nhận thông tin riêng, được Người vô hình kèm cặp hướng dẫn. Bắt đầu thời kỳ của nhà ngoại cảm. Nếu mất cầu nối năng lượng quý báu này, sẽ hết khả năng ngoại cảm.

Như vậy để giữ gìn khả năng ngoại cảm cần phải duy trì cầu nối do thiên phú thiết lập. Vấn đề cơ thể sạch rất quan trọng, ngay từ giờ phút đầu tiên, thiên phú đã bí mật quét dọn cơ thể người đó sạch sẽ ô trược. Nhà ngoại cảm cần duy trì cơ thể trong sạch. Trong quá trình tiếp xúc tác nghiệp, nhà ngoại cảm đã lãnh nhận nghiệp lực, ô trược của nhiều người. Song các nhà ngoại cảm không bị ảnh hưởng, vì được bề trên hướng dẫn, độ trì cách hóa giải trược khí, với nhiều cách giải trược mỗi người khác nhau. Nếu nhà ngoại cảm thực hiện tốt khâu này khả năng ngoại cảm rất bền vững.

Ví dụ: Nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Nghi, làm việc không mệt mỏi trên 20 năm, vẫn giữ vững khả năng ngoại cảm suất sắc. Đó là một kỷ lục rất quý báu. Mỗi buổi tìm mộ, hoặc chữa bệnh, cô bị nhiễm âm khí, rất mệt mỏi, và đau theo người bệnh. Cô Nghi đã giải trược bằng lòng trắng trứng và đồng bạc trắng. Mỗi buổi làm việc cô thường có một người phụ việc liên tục xoa lòng trắng trứng và đồng bạc trắng để giải âm khí, mỗi buổi dùng hết 1 chục quả trứng. Nhà ngoại cảm Lệ Trinh ( Hưng Yên ), khi đặt tay chữa những ca bệnh nặng, trược khí làm cánh tay đau cứng không cử động được, cô ngừng chữa và hướng tay về phía mặt trời, xin mẹ Quan âm hóa giải, trong 3 phút cánh tay mềm lại bình thường, cô tiếp tục chữa bệnh…

Cùng với thân sạch, phải có Tâm sạch, không toan tính ích kỷ, không tham lam, không nóng giận, không nói dối, làm việc với tình thương cao cả. Khi đó Tâm nhà ngoại cảm phù hợp với ý nguyện của bậc thánh nhân độ trì, cùng đồng thuận thì khả năng ngọai cảm bền vững dài lâu. Nếu cơ thể bị tích lũy ô trược nặng nề theo năm tháng, khả năng ngoại cảm duy trì trong 7-10 năm có thể hết năng lượng thiên phú, trở thành người bình thường.

Rất ít người biết sự tích luỹ của ô trược, vì sự dấu mặt bí hiểm của nó trong vô thức khó cảm nhận được, không biết phòng tránh. Chúng tôi đã xuất bản cuốn sách “Sức mạnh Vô thức” đề cập sự vận hành bí ẩn của ô trược, và cách sử lý ô trược.

Tùy tình trạng cơ thể, khi luyện tập vô thức có 3 mức diễn biến

- Người trẻ tuổi, không có bệnh tật, người đã tu thanh tịnh lâu ngày, ít nhiễm trược thì ít hiệu ứng sổ trược, có chuyển biến ngay từ tuần tập đầu tiên ngừơi sảng khoái, khỏe mạnh dễ chịu, nhanh chóng khai mở Hà Đào Thành và phát triển tâm linh.
- Tư tưởng chi phối nhiều phương pháp, thiếu tin tưởng, tập uể oải không đều đặn hàng ngày thì hiệu quả kém, không sổ trược, hoặc không thải hết trược khí. Trường hợp này chúng tôi thông báo không được tập vô thức.
- Người bệnh lâu năm, bệnh nan y, cơ thể bị nhiễm trược, tùy theo bệnh, tùy công phu tu tập, tùy theo nghiệp lực nhân quả, mỗi người có hiệu ứng xả trược riêng, khác nhau không kể hết. Những ngày đầu trược khí ( và độc tố ) bắt đầu bung thoát, cảm thấy bức xúc khó chịu, mệt mỏi, đổ mồ hôi rất nhiều, mùi hôi khẳm, da nổi mẩn ngứa, da nhớt dính, râm ran, rung nháy, nóng, tóc rung nháy, chảy nước mắt… Mỗi người còn có những triệu chứng khác nhau ( tiểu tiện, đại tiện nhiều chất lỏng, ho khạc...) Vùng nào có bệnh thì mẩn ngứa nhiều hơn, khoảng 1-2 tuần, sẽ hết ngứa.. Nơi bế tắc ( ở kinh mạch, huyệt đạo, nơi có u chèn ép, nơi ổ bệnh...) sẽ rung nháy giật, cho đến khi khai thông xong ắch tắc, hết rung nháy.

Khi đào thải hết ô nhiễm, sẽ lưu thông toàn bộ kinh mạch huyệt đạo, do đó hấp thụ Prana mạnh mẽ, bệnh sẽ khỏi. Người được khai mở Hà Đào Thành, sẽ thay đổi diện mạo mới, tươi trẻ lại, đạt được Trường thọ, siêu thoát.

Bài luyện tập vô thức thành công nhiều nhất với những người có tinh thần Phật giáo. Khi tâm đã giác ngộ vấn đề luyện tập giải trược, Hà Đào Thành sẽ nhanh chóng khai mở dễ dàng. Vì vậy cần tích cực học hỏi kiến thức giác ngộ cái Tâm của mình.

Đức Phật là vị giáo chủ duy nhất trên thế giới tìm ra nguyên nhân khổ đau bệnh tật do sự vận hành của 5 loại ô trược ( ngũ trược ) . “Bụt Thích Ca Mâu Ni thật là hiếm có. Ngay trong cõi Ta bà đầy dẫy năm yếu tố ô nhiễm là: Kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược và mạng trược mà ngài có thể chứng đắc được quả vị giác ngộ vô thượng và còn tuyên thuyết được cho chúng sinh… Thầy nên hiểu cho rằng cư trú trong thế giới đầy năm loại ô nhiễm này mà đạt tới được quả vị vô thượng và còn diễn giải được cho mọi giới những pháp môn rất khó tin như pháp môn này, đó quả là việc cực kỳ khó khăn”… (trích: Kinh ADi Đà). Mục đích của Đạo Phật là đạt tới Tự do Hạnh phúc làm chủ số phận, nhờ giải thoát hết ngũ trược.

Ngày nay, khoa học bắt đầu phát hiện năng lượng tiêu cực (ô trược) qua sự nghiên cứu của một số viện hàn lâm khoa học: “Y học rung (Hoa kỳ) - Y học đa chiều (Nga) - đã tìm đến nguyên nhân sâu xa của bệnh tật, “mầm bệnh” gọi theo danh từ Vật lý là “Thông tin tiêu cực” từ bên ngoài nhập vào cơ thể hoặc “tự sinh” từ bên trong cơ thể. Chúng có cấu trúc trường xoắn, dạng sóng đứng lập thể (Soliton). Năm 1993, viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Nga V.S Kaznaxcep bằng thực nghiệm đã chứng minh sự hiện hữu của Soliton trong không gian nucleo-protein của tế bào sống. Chúng có khả năng di chuyển bên trong cơ thể và ra khỏi cơ thể…Trong xã hội loài người các “Thông tin tiêu cực” xuất phát từ chính con ng­ười thông qua cách đối xử, t­ư duy, phong tục, thương tr­ường cạnh tranh, đồng tiền, từng giây phút tác động đến con ngư­ời. (GS.TSKH. Đoàn Xuân Mượu. Báo Khoa học & Đời sống 4/2005.)

Các nhà ngoại cảm gánh vác công việc rất khó khăn, giải nghiệp oán, trược khí cho người bệnh, bản thân các nhà ngọai cảm phải hy sinh cực khổ chứ không đơn giản như mọi người tưởng. Các nhà ngoại cảm có thể ốm đau và mất dần khả năng ngoại cảm khi tích luỹ quá nhiều trược khí. Vì vậy các nhà ngoại cảm đều được bảo trợ tâm linh xả trược (đánh gió, đánh trứng, luyện phép…) mới đảm bảo sức khoẻ tiếp tục công việc. Người không có sự bảo trợ tâm linh hóa giải ô trược, mà giả danh hoặc bắt chước công việc của nhà ngoại cảm thì đương nhiên người đó không có sự an toàn, còn tác hại cho nhiều người khác. Cũng có trường hợp ma tà bất chính mạo danh nhà ngoại cảm, chúng đọc được ý nghĩ người khác, có chút tài năng chinh phục lấy lòng tin, nhưng sẽ bộc lộ đặc tính lươn lẹo dối trá, hay tham tiền, mê gái, hay dụ dỗ, bắt ép, có thủ đoạn dọa nạt người yếu… Vì vậy gìn giữ Thân và Tâm sạch, là một yếu tố quan trọng giúp duy trì và phát triển bền vững khả năng ngoại cảm, tình trạng sức khỏe, tâm linh và tuổi thọ mỗi người.
Phương pháp luyện tập dưỡng sinh, ăn uống hợp lý, còn nhiều vấn đề cần thảo luận kỹ lưỡng vào một buổi khác.

Môi trường Địa linh là môi trường giàu có năng lượng Prana, có tác động trực tiếp với sức khỏe và tinh thần. Tại khu vườn Long An, chúng tôi đã thu thập những kết quả khỏi bệnh vượt quá khả năng chữa trị của y học. Đi vào khu vực đó, dù không uống thuốc hay bất cứ một thao tác chữa trị nào, nhiều người đã khỏi những căn bệnh rất hiểm nghèo, nhiều loại bệnh như : Liệt, câm, ung thư, tim mạch, thần kinh, điên, trầm cảm… (báo cáo trong đề tài khác). Tỷ lệ khỏi bệnh tương đối cao, nhưng không có tỷ lệ khỏi bệnh 100%. Do chi phối Nhân quả nghiệp lực, người đó còn phải phấn đấu tu rèn hơn nữa, mới được hấp thụ Prana.

Môi trường Địa linh đã giúp chúng tôi cơ hội đặc biệt quý giá, quan sát khách quan nhất quá trình khỏi bệnh bằng Năng lượng Prana, các diễn biến quá trình Tự điều chỉnh của cơ thể: Chuyển biến đầu tiên là thanh lọc ô trược. Người có bệnh bình thường khó nhận ra quá trình thanh lọc, chỉ một số trường bệnh rất nặng, khi tới vườn có những chuyển biến đau tăng, ốm nặng, sốt cao, được xả trược qua lỗ chân lông, da, tóc, đường đại tiểu tiện, ho, khạc đờm, nôn keo nhớt… Có trường hợp ung thư máu, ung thư di căn đã bong tróc tất cả lớp da, rụng hết tóc (không do chiếu tia xạ), rồi mọc lại lớp da trắng hồng hơn, tóc đen mượt. Có trường hợp u sơ rải rác não nghi sán não, đã thải sán nhỏ như đầu kim qua đại tiện. Những trường hợp xả trược triệt để, đã được phục hồi sức khỏe tốt hơn trước khi có bệnh.

VẤN ĐỀ ĐỐT VÀNG MÃ


Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải

Nếu vấn đề hỏa táng (hay địa táng) được xã hội đặt ra do sự bức xúc việc thiếu đất để chôn người chết, trái lại việc đốt vàng mã không phải là do áp lực của điều kiện xã hội, mà là do phong tục tập quán tín ngưỡng. Tất nhiên việc đốt vàng mã cũng đẻ ra những vấn đề liên quan đến môi trường và kinh tế, nhưng việc đốt vàng mã có thể xảy ra hỏa hoạn, hoặc việc đốt vàng mã đẻ ra sự lãng phí về vấn đề giấy, nhưng đó không phải là vấn đề quá bức xúc để phải đặt ra việc thay đổi tập quán đốt vàng mã. Nếu phải giải quyết vấn đề phá bỏ một tập tục được coi là “vô lý”, phải có một chứng minh khách quan là việc đốt vàng mã không mang lại một hiệu quả tâm linh nào. Đó chính là vấn đề mà ta phải giải quyết trong đề tài nghiên cứu “Thực chất của việc đốt vàng mã”.

1. Hiện tượng đốt vàng mã

Cho đến nay vấn đề đốt vàng mã được coi là một phong tục tập quán xã hội, người ta rất e dè trong việc ủng hộ hay phê phán hiện tượng này, vì đốt vàng mã là gửi những món quà cho những người đã mất. Có ý kiến nói rằng, thông qua những “cô đồng” một số người đã chết cho biết họ có nhu cầu người sống gửi cho họ một số vận dụng. Cũng qua những cô đồng, ý kiến phản hồi cho biết người chết đã nhận được những quà tặng được gửi (mà cô đồng không biết nội dung các thứ đã gửi). Một số khác cho rằng người chết không nhận được những món quà này, mà đó chỉ là một hình thức để thể hiện tâm nguyện của người sống tưởng nhớ đến người chết, và việc đốt vàng mã gửi những quà tặng chỉ có hiệu ứng tâm lý đối với người đã sống đã thực hiện một số vấn đề để thể hiện trách nhiệm đối với người chết.

Ngay trong nghị định của Chính phủ chỉ nói là “cấm đốt vàng mã ở nơi công cộng” chứ không nói là cấm đốt vàng mã nói chung, bởi nếu như vậy sẽ vấp phải sự phản ứng rất mạnh của quần chúng. Thế nhưng việc đốt vàng mã, với hình thức của nó choa ta thấy một biểu hiện rất rõ của cái mà người ta cho là “mê tín dị đoan”. Chẳng hạn, người chết ngày xưa làm sao biết đồng đô la mà gửi đô la cho các cụ tiêu ( ! ? ), nếu không kể đến những ngựa, voi bằng giấy to tướng, cồng kềnh, những “hình nhân thế mạng” đem đốt cho người chết. Ngày nay người ta còn làm những đồ vàng mã đắt tiền như gửi cả ô tô, xe máy, ti vi, tủ lạnh, thậm chí cả những ngôi nhà và biệt thự cho người âm. Ở các đền chùa để phục vụ cho việc đốt vàng mã, người ta phải làm riêng những “lò” cho người đi lễ đốt vàng mã. Số tiền để tiêu tốn cho việc đốt vàng mã cũng không phải là ít. Để bảo vệ cho phong tục đốt vàng mã người ta viện dẫn là các nước có điều kiện đời sống kinh tế cao hơn ta như Hàn Quốc, Hồng Kông vẫn duy trì việc đốt vàng mã, lại còn đặt nhiều cơ sở nước ta in “tiền âm phủ” cho họ

Như vậy, để trả lời cho câu hỏi việc đốt vàng mã có tác dụng gì đối với người âm hay không? Không thể viện dẫn vì lý do dễ gây hỏa hoạn, lãng phí, vì trong xã hội gần như chưa có vụ hỏa hoạn nào xảy ra do đốt vàng mã, và còn quá nhiều cái lãng phí để đòi hỏi cấm đốt vàng mã để chống lãng phí. Cũng không thể viện dẫn giáo lý nhà Phật không có đoạn nào dạy phải đốt vàng mã, vì theo Phật Giáo cũng tuyên bố là đạo Phật không tin là có linh hồn, trong khi việc tìm mộ liệt sĩ đã khẳng định điều này. Bởi thế, vấn đề đặt ra trong đề tài nghiên cứu này là tìm hiểu xem thực chất của việc đốt vàng mã là như thế nào? Đốt vàng mã có tác dụng gì hay không đối với người chết?. Tức là nghiên cứu cơ sở khoa học của vấn đề, sau đó mới bàn đến vấn đề xã hội của nó.

2. Phong tục đốt vàng mã ra đời như thế nào? 

Những người phản đối vấn đề đốt vàng mã có thể tìm thấy lý lẽ vững chắc bởi sự kiện là các nước Phương Tây không có tục đốt vàng mã. Như vậy phải chăng tổ tiên họ, những người đã mất sẽ luôn bị thiếu thốn vì không có ai gửi quà cho họ. Những người theo Thiên chúa giáo cũng như Hồi giáo, đều không có tục đốt vàng mã. Thời thượng cổ, ngay trong những quan niệm thần bí người ta cũng chỉ gửi cho người chết một số đồ “tùy táng”, tức là những vật dụng mà khi người chết còn đang sống vẫn thường sử dụng với ý nghĩ là khi họ chết là có những đồ đó theo mình. Với những nhà quyền quý và các vua chúa, những đồ tùy táng thì không kể hết được. Khảo cố học cho biết ngôi mộ của Tần Thủy Hoàng có rất nhiều tượng và đất nung, các giáp binh, và ngựa chiến để cho vị Hoàng đế này sử dụng ở thế giới bên kia. Một số phong tục còn tàn ác hơn, người ta bắt một số cung nữ “tuẫn táng”, tức là bị bức chết theo nhà vua để phục vụ nhà vua dưới âm phủ. Một số nhà quan thì gửi chuông khánh, và ngọc chôn theo người chết, v.v… Những vật báu gửi theo này chính là nguồn gốc để cho những kẻ phá mộ cổ để tìm vật báu. Thời xưa người ta chưa có giấy, chữ viết được viết trên đất sét rồi đem nung, hoặc viết trên tre, viết trên lụa, viết trên da của các động vật. Người phát minh ra giấy là Thái Luân trong thế kỷ đầu của Công nguyên, thời nhà Hán mới có người phát minh ra giấy. Như vậy không thể có tục đốt vàng mã từ thời thượng cổ.

Theo một vài nghiên cứu về đốt vàng mã ra đời từ Trung Quốc, bắt đầu từ việc làm hình nhân thế mạng để chuộc mệnh cho người sống. Tiếp đó là việc bắt chước việc gửi đồ tùy táng cho người chết, mà thứ dân không có điều kiện gửi các đồ thật, phải làm các đồ mã để thay thế. Từ đó ý tưởng gửi cho người chết những thứ mà họ cần dùng được mở rộng cho các vận dụng của thời hiện đại như ta đã thấy, không chỉ có voi, ngựa, hình nhân, mà cả ôt tô, ti vi, điện thoại di động, v.v…
Sự ra đời của phố Hàng Mã trước đây ở Hà Nội, và hiện trạng các thứ đồ mã đang được bày bán là minh họa cụ thể cho hiện tượng trên.

Theo thống kê của Bộ Văn hóa – Thông tin, với số liệu chưa được đầy đủ, hàng năm đã có hơn 40 ngàn tấn vàng mã được đốt, và riêng cả Hà Nội đã có khoảng 400 tỉ đồng chi cho việc đốt vàng mã.

3. Nghiên cứu thực chất của việc đốt vàng mã

Như trên đã nói, việc đốt vàng mã mặc dù là một phong tục tập quán nhưng đã củng cố của một vài hiện tượng tâm linh. Qua việc gọi hồn người chết có nhu cầu con cháu họ gửi cho họ một vài thứ. Khi một vài thứ đó được gửi dưới dạng vàng mã thì người âm cho biết người chết có nhận được, và gia đình được yên ổn. Một vài hiện tượng như lễ tạ bằng hình nhân: voi, ngựa được cho biết là cũng có tác dụng tương tự. Tuy nhiên, một vài nhà ngoại cảm cho biết là họ có thể chữa bệnh cho người âm chỉ bằng tư tưởng của họ. Người sống có thể gửi cho người chết những cái họ cần chỉ bằng những đồ bằng giấy cắt theo hình dạng các vật dụng ấy với tấm lòng thành đem đốt đi là được. Nói chung, một số nhà ngoại cảm cho rằng việc đốt vàng mã không phải là việc gửi các đồ mã cho người chết mà có tác dụng, mà là gửi tấm lòng của người sống đối với người chết thông qua một vài đồ mã. Khi người sống có những ý niệm chân thành mua, sắm những vật dụng đồ mã đó thì những đồ mã này đã là những “giá thể” tiếp nhận những thông tin từ não bộ của họ. Cũng vậy, việc làm sớ nếu gia chủ chân thành gửi lòng mong muốn, cầu xin những điều gì cho người đã khuất, những ý niệm ấy được thể hiện bằng những thông tin ghi vào tờ sớ. Khi đốt những đồ mã ấy, đốt những tờ sớ ấy những thông điệp tinh thần ấy được giải phóng và gửi tới thế giới bên kia.
Chính cũng vì chủ trương cái tâm là chính nên nhân dân ta cũng đã quan niệm:
Tâm thành thắp một nén hương cũng là

Tuy nhiên tất cả những điều nói trên mới chỉ là những quan niệm, những giả thuyết. Để giải quyết vấn đề này có cơ sở khoa học, chúng ta phải thông qua những người có khả năng đặc biệt dùng phương pháp áp vong, hoặc gọi hồn để có được những thông tin về những người đó.

a) Thực nghiệm trên một số gia đình với đề nghị cầu xin chân thành là giúp cho khoa học tâm linh được hiểu biết, những người này đốt một số vàng mã cho người chết. Sau đó gọi hồn hoặc áp vong xem người chết có nhận được những thứ họ gửi không. “Cô đồng” hoặc người áp vong không biết về những thứ vàng mã đã gửi. Trên một số đối tượng khác nhau, với một số lượng thống kê đủ tin cậy ta sẽ có một số thông tin tham khảo.

b) Gọi hồn, áp vong để hỏi nhu cầu của người chết, không đốt vàng mã thông thường, mà đốt những thứ vật dụng bằng giấy tự chết tạo dưới dạng hình vẽ những vật dụng đó (như một số ý kiến một số nhà ngoại cảm đã nêu).

c) Áp vong một số người theo tôn giáo khác như đạo Thiên Chúa, đạo Cao Đài, v.v… xem ý kiến của họ về thế giới bên kia như thế nào.

d) Một số hình thức tương tự khác để trắc nghiệm.

4. Cơ quan nghiên cứu và phối hợp

Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người là đơn vị chính thực hiện đề tài để có thể huy động những người có khả năng đặc biệt. Phòng trắc nghiệm các bộ môn, và các đơn vị chủ lực tham gia đề tài nghiên cứu.

Trung tâm phối hợp với các cơ quan khác như: Viện nghiên cứu Tôn giáo, Hội Phật giáo Việt Nam, và trước hết là Sở Văn hóa - Thông tin của UBND Thành phố Hà Nội để thực hiện những bước nghiên cứu đầu tiên, và có kinh phí nghiên cứu.