Wednesday, May 2, 2012

BỖNG DƯNG MUỐN... ĐI TU


Bùi Hiền
Giới trẻ ở Hà Nội đang có xu hướng lên chùa tu thiền với mong muốn cho tâm tĩnh lặng và thảnh thơi.
Thiền cho tâm an ổn, thanh tịnh
Những người chưa biết đến đạo Phật đều nghĩ “chỉ có thất tình, chán công việc mới đi tu”, đi tu là phải vào chùa xuống tóc, phải hạn chế nhiều điều so với cuộc sống đời thường.
Đó là một quan niệm không chính xác, chưa hiểu hết về Phật. Theo đạo Phật thì tu chính là dần sửa mình, là tu thân tích đức, tu tâm dưỡng tính, chỉ làm cho mỗi người tốt lên chứ không gây thiệt thòi gì.
Bạn Trần Minh Trang (Ngân hàng Á Châu) cho hay: “Làm trong ngành tài chính với nhiều áp lực nên lúc nào cũng mệt mỏi và căng thẳng nhưng từ ngày tu thiền mình cảm thấy thảnh thơi, giảm bớt những suy nghĩ tiêu cực. Đặc biệt, tu thiền đã giúp mình hạn chế được sự nóng giận, tham lam ích kỷ và nhất là dẹp được si mê”.
Ở Hà Nội hiện có gần 10 địa chỉ tu thiền được sinh hoạt dưới hình thức câu lạc bộ Phật tử rồi mở rộng như Đoàn Thanh niên Phật tử (TNPT) chùa Quán Sứ, Đoàn TNPT Về Nguồn chùa Đình Quán, Đoàn TNPT chùa Lý Triều Quốc Sư, Đoàn TNPT Trần Thái Tông Thiền viện Sùng Phúc...
“Sau một thời gian dài sinh hoạt ở chùa Đình Quán, tôi đã tự tin lên rất nhiều. Không sợ đối mặt với những điều không hay sẽ xảy đến với mình. Nhờ tu thiền mà tôi tìm thấy sự yên tĩnh trong tâm hồn, không còn cáu gắt, nổi nóng và lo nghĩ như trước nữa” - chị Hoàng Phương Thảo (Từ Liêm - Hà Nội) tâm sự.
Theo chị Thảo, đến chùa ngoài việc được nghe các Sư Thầy hướng dẫn tu thiền, còn được nghe giảng về Phật pháp, được giải đáp những khúc mắc trong cuộc sống và trao đổi kiến thức để thấm nhuần tư tưởng Phật giáo, đồng thời tạo sợi dây kết nối chặt chẽ trong cộng đồng Phật tử nói chung, tình đạo hữu nói riêng.
Từ tu thiền đến sự giác ngộ
Nhịp sống hiện đại ngày càng gấp gáp khiến con người nhiều lúc cảm thấy “hụt hơi”. Sau một đợt bận rộn, chật vật để mưu sinh, nhiều người trẻ bắt đầu cảm thấy dường như cơ thể không còn biết “nghe lời”.
Đại đức Thích Thiện Tài (Quản chúng tại Thiền viện Sùng Phúc) chia sẻ: “Khi con người có dấu hiệu của sự không làm chủ được suy nghĩ, bản thân mà cứ mải mê lao theo những mục đích không nằm trong những nhu cầu căn bản nhất như: ăn, ngủ, mặc, ở... rồi đau khổ vì chính những điều phù phiếm đó, ấy là khi ta cần tìm đến tu thiền”.
“Tu thiền là một phương pháp tu luyện bản thân theo tinh thần Phật giáo, để cái tâm không tán loạn, không còn tham, sân, si... Đặc biệt là tu thiền còn để tâm bình, khí hòa, biết chắt lọc những điều hay dở” - Đại đức Thiện Tài khẳng định.
Trong xã hội ngày càng nhiễu loạn giữa các luồng thông tin, tu thiền theo Phật giáo cũng đang là cách mà nhiều phụ huynh đang hướng cho con cái họ để tiếp nhận được sự an lạc.
Người biết tu thiền sẽ biết nhìn nhận một cách thấu đáo về bản thân mình, không xét nét lỗi lầm của người khác mà chỉ tập trung hoàn thiện bản thân nhằm đạt được cái đích cuối cùng. Đó là trí thông minh tuệ giác và cái tâm thanh tịnh, an bình.

CÕI ÂM VÀ VẤN ĐỀ NGOẠI CẢM


Thời gian gần đây, báo chí có đưa tin về việc các nhà ngoại cảm đi tìm mộ liệt sĩ và tiếp xúc được với người “cõi âm”. Phật giáo giải thích hiện tượng này thế nào? Quan điểm của Phật giáo là thần thức sau khi chết tối đa là 49 ngày thì tái sanh vào một thế giới tương ứng với nghiệp thức. Nếu đã tái sanh vào cõi khác thì “ai” tiếp xúc với các nhà ngoại cảm? Tại sao có những người chết cách nay hàng trăm năm vẫn tiếp xúc được với các nhà ngoại cảm? “Cõi âm” mà các nhà ngoại cảm tiếp xúc được nằm ở đâu trong lục đạo.
Việc các nhà ngoại cảm tìm được hài cốt của những người chết nhờ tiếp xúc với người “cõi âm” được báo chí công bố gần đây là điều có thật và rất đáng trân trọng. Thực ra, khả năng ngoại cảm của con người được biết đến từ thời xa xưa. Các nước trên thế giới, từ lâu, đã nghiên cứu và ứng dụng ngoại cảm vào nhiều lĩnh vực của đời sống, trong đó có cả quân sự.
Và các nhà khoa học Việt Nam, từ khoảng 15 năm nay, đã bắt đầu nghiên cứu một cách nghiêm túc về các hiện tượng đặc biệt của con người, trong đó có ngoại cảm. Tiên phong trong lĩnh vực này là các cơ quan như Liên hiệp Khoa học Công nghệ tin học ứng dụng, Viện Khoa học Hình sự Bộ Công an, Trung tâm Bảo trợ Văn hóa truyền thống và Bộ môn Cận tâm lý Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người.
Trước hết, Phật giáo không hề có quan niệm về một dạng sống được gọi là “cõi âm”. Thế giới quan của Phật giáo là vô lượng vô biên thế giới, hằng hà sa số thế giới, trong đó có thế giới Ta bà gồm Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Hai cõi Sắc và Vô sắc là cõi giới của thiền định. Cõi Dục gồm lục đạo là các loài Trời, A tu la, Người, Ngạ quỷ, Súc sanh và Địa ngục. Cõi âm hoặc âm phủ chỉ là quan niệm dân gian dùng để chỉ thế giới của người chết đối lập với cõi người sống (cõi dương).
Đối với các bậc chân sư Phật giáo đã chứng đạo, khả năng đặc biệt của các nhà ngoại cảm là chuyện bình thường, không có gì xa lạ cả. Những thiền sư, nhờ tu tập thiền định mà thành tựu Tam minh và Lục thông. Trong đó, khả năng của các nhà ngoại cảm hiện nay có thể xem như là một phần nhỏ của Thiên nhãn thông (năng lực thấy rõ mọi thứ, không ngăn ngại), Thiên nhĩ thông (năng lực nghe được tất cả các dạng âm thanh) và Tha tâm thông (năng lực biết được tâm ý của người cùng các chúng sanh khác).
Chỉ có điều, các hành giả Phật giáo hiếm khi tuyên bố về thần thông, bởi thần thông thường thành tựu trước trí tuệ (chứng đắc Tứ thiền đã có năng lực của Ngũ thông, trừ Lậu tận thông) và chấp thủ hay lạm dụng vào thần thông sẽ chướng ngại giải thoát tối hậu. Vì vậy, các hành giả Phật giáo khi có sở đắc về thần thông thì đa phần thường im lặng. Đối với giới khoa học, Thiếu tướng Chu Phác, Chủ nhiệm Bộ môn Cận tâm lý Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người, khá am tường Phật giáo khi nhận định: “Việc ‘thấy’ của các nhà ngoại cảm xét dưới góc độ khoa học hiện đại thực ra là hiện tượng Thiên nhãn thông, một trong mười lợi ích của thiền định”.
Sau khi chết, thần thức thường trải qua giai đoạn trung gian, chuyển tiếp trước khi tái sanh. Khoảng thời gian cho giai đoạn mang thân trung ấm này tối đa là 49 ngày, ngoại trừ hai trường hợp cực thiện và cực ác thì tái sanh ngay lập tức vào cõi Trời hay cõi Địa ngục. Tuy nhiên, còn có trường hợp đặc biệt của thân trung ấm do chết đột ngột (đột tử) và chết một cách oan ức thì thần thức hoặc “không biết” mình đã chết, hoặc do oán hận ngút ngàn mà cận tử nghiệp bám chặt, chấp thủ kiên cố vào trạng huống “hiện tại”, được gọi là các “oan hồn”, cần phải khai thị (giải nghiệp) mới có thể chuyển kiếp, tái sanh.
Ngoài các thân trung ấm, những “oan hồn”, các nhà ngoại cảm còn tiếp xúc được với những chúng sanh trong loài Ngạ quỷ. Nhà ngoại cảm Bích Hằng đã nói rất chính xác: “Thế giới người âm rất đa dạng, phong phú, chia thành nhiều giai tầng”. Chúng sanh loài Ngạ quỷ chiếm nhiều nhất so với các loài khác trong lục đạo. Những đối tượng mà con người gọi là “ma, quỷ, thần linh nói chung…” đều thuộc “những giai tầng” của loài Ngạ quỷ này.
Như vậy, “cõi âm” mà các nhà ngoại cảm tiếp xúc được bao gồm các chúng sanh đang ở giai đoạn thân trung ấm, các “oan hồn” và loài Ngạ quỷ. Nhà ngoại cảm Bích Hằng cũng nói rõ là “tôi chưa thấy địa ngục của người cõi âm bao giờ”, bởi chỉ những người tạo các ác nghiệp và các bậc Đại Bồ tát có đầy đủ thần lực mới vào được địa ngục mà thôi.
Hiện nay, các nhà ngoại cảm thường tìm kiếm hài cốt theo hai hướng.
Khuynh hướng thứ nhất là các nhà ngoại cảm “thấy” được hài cốt, vẽ lại sơ đồ chi tiết khu vực ấy và hướng dẫn thân nhân tìm kiếm. Trường hợp này nhà ngoại cảm chỉ sử dụng khả năng “thiên nhãn thông” của mình để tìm kiếm và phát hiện hài cốt mà không cần trợ giúp của “chủ nhân” chính hài cốt ấy. Bởi hầu hết những hài cốt này chỉ là phần thân xác vật chất đơn thuần (địa đại-đất), còn thần thức đã theo nghiệp tái sanh.
Tuy nhiên, vì các nhà ngoại cảm chưa thành tựu Đại định (tam muội) nên năng lực “thấy” của họ thường chập chờn. Tùy thuộc vào cấp độ định tâm hay trạng thái tâm của họ khi làm việc mà “thấy mờ hoặc tỏ” khác nhau, phải điều chỉnh nhiều lần mới tìm ra vị trí chính xác của hài cốt. Năng lực thấy rõ không có gì ngăn ngại này của các nhà ngoại cảm còn được vận dụng để tìm kiếm khoáng sản, thăm dò lòng đất (ngành mỏ-địa chất), khả năng khám, chữa bệnh (ngành y khoa) v.v… hiện đang được nhiều quốc gia trên thế giới nghiên cứu, khai thác và ứng dụng.
Khuynh hướng thứ hai thì ngược lại, nhà ngoại cảm tiếp xúc với người “cõi âm” và họ chỉ cho nhà ngoại cảm thấy hài cốt của chính họ hoặc những người khác. Trường hợp này, sự trợ giúp của người “cõi âm” vô cùng cần thiết, do đó nhà ngoại cảm và thân nhân phải có lòng thành. Vì người “cõi âm” biết được tâm ý của chúng ta cho nên nếu lòng không trong sáng, tâm không thành khẩn, làm việc vì danh lợi thì sẽ thất bại. Những chúng sanh mang thân trung ấm, những “oan hồn” và loài ngạ quỷ đều có thể tiếp xúc được với nhà ngoại cảm để truyền thông những thông tin cần thiết.
Ở đây, trường hợp đặc biệt cần lưu tâm là các “oan hồn”. Như đã nói những người chết “bất đắc kỳ tử”, chết trong oán hận tột cùng rất khó tái sanh. Mặc dù phần lớn các luận sư Phật giáo đều cho rằng thời gian thích hợp cho tái sanh của thân trung ấm thường tối đa là 49 ngày nhưng “oan hồn” là một ngoại lệ. Theo luận sư Pháp Cứu (Dharmatrata), tác giả Tạp A tỳ đàm tâm luận (Samyutara Abhidharmahridaya) thì thân trung ấm tồn tại không hạn chế thời gian nếu nhân duyên chưa đủ để đầu thai (xem thêm Đại cương luận Câu xá, tác giả Thích Thiện Siêu, NXB Tôn Giáo, 2000, tr.109).
Kế thừa quan điểm này, về sau vị chân sư Phật giáo Tây Tạng Sogyal Rinpoche, bằng tuệ giác chứng ngộ của mình, trong Tạng thư sống chết (Thích nữ Trí Hải dịch) khẳng định: “Toàn thể trung ấm tái sanh kéo dài trung bình 49 ngày, và ít nhất là một tuần. Nhưng cũng còn tùy, giống như hiện tại có người sống tới trăm tuổi, trong khi kẻ khác chết non. Một số lại còn bị kẹt trong thế giới trung gian để thành ma quỷ (18- Bardo tái sanh)” hay “Những người đã có cái chết kinh khủng hay đột ngột rất cần được giúp đỡ. Những nạn nhân của ám sát, tự sát, tai nạn, chiến tranh, thường rất dễ rơi vào sợ hãi đau đớn, hoặc ở mãi trong kinh nghiệm khủng khiếp về cái chết của họ, do đó không thể tiến đến giai đoạn tái sanh (19- Giúp đỡ sau khi chết)”. Vì những lý do trên, có những trường hợp tuy đã chết rất lâu nhưng vẫn chưa được tái sanh.
Phần lớn những người “cõi âm” mà nhà ngoại cảm tiếp xúc, mô tả hình dáng, tính cách của họ đúng như dáng vẻ, tâm trạng lúc chết đều ở trong trường hợp này. Chính việc thần thức “ở mãi trong kinh nghiệm khủng khiếp về cái chết”, “bị kẹt trong thế giới trung gian” (lời của Sogyal Rinpoche), sự chấp thủ kiên cố, bám chặt vào trạng huống “hiện tại” trước khi chết đã tạo ra một dạng sống gọi là “oan hồn”. Do đó, Phật giáo thường lập đàn tràng Giải oan bạt độ và Chẩn tế âm linh cô hồn. Giải oan là tháo gỡ sự chấp thủ, khai thị cho “oan hồn” hiểu giáo pháp mà buông xả, tỉnh ngộ để tái sanh. Chẩn tế là ban phát thực phẩm cho loài ngạ quỷ được no đủ, đồng thời khuyến hóa họ hồi tâm hướng thiện để sớm chuyển nghiệp, siêu thăng.
Như vậy, thế giới “cõi âm” vô cùng đa dạng và phức tạp, những nhà ngoại cảm nhờ có nhân duyên đặc biệt nên tiếp xúc được với họ, giúp họ truyền thông với con người. “Thông điệp” của người “cõi âm” cũng không ngoài tình thương, sự trân trọng, quan tâm lẫn nhau và đề cao các giá trị đạo đức, tâm linh. Chính những tâm tư của người “cõi âm”, nhất là các “oan hồn” đã góp phần tạo nên khí vận quốc gia, hồn thiêng sông núi. Do đó, việc cầu nguyện cho âm siêu dương thái theo pháp thức Phật giáo là điều cần làm.
Ngày nay, các nhà khoa học đang nỗ lực khám phá hiện tượng ngoại cảm theo hướng trường sinh học hay năng lượng sinh học. Tuy nhiên, nếu chỉ thiên về nghiên cứu “vật chất” thì sẽ khó tiếp cận trọn vẹn vấn đề, bởi “sắc tức thị không, không tức thị sắc” (Tâm kinh). Đó là chưa kể đến hoạt dụng của tâm thức A lại da bao trùm khắp cả pháp giới, siêu việt cả tâm lẫn vật, theo Duy thức học, chỉ có tu tập thiền định mới có thể khai mở và thành tựu kho tàng tuệ giác này.

(Theo Giác Ngộ)

Thursday, April 12, 2012

ĐỪNG RƠI VÀO MA NGHIỆP

Thích Thái Hòa

(TG&DT) - Tôn giáo không thể nào tự có, nếu con người không có niềm tin. Và Tôn giáo không thể nào chân chính, khi viện dẫn những quyền lực siêu nhiên để khủng bố con người và vinh danh Thần linh để giết hại con người và muôn thú.

Tôn giáo nào không bảo vệ và tôn trọng sự sống của con người và chúng sinh, mà trái lại khủng bố con người và giết người hàng loạt để vinh danh Thần linh, thì Tôn giáo ấy không phải là Tôn giáo của con người và chúng sinh; hoặc khi vị giáo chủ của Tôn giáo ấy ra đời, mà những tín đồ phụng thờ vị giáo chủ ấy, giết hại chúng sinh để hiến tế hay ăn mừng, thì Tôn giáo ấy cũng không phải là Tôn giáo của con người và cũng không có ân đức gì với chúng sinh khi vị ấy xuất hiện. Tôn giáo ấy chỉ là Tôn giáo của những kẻ thiếu nhân văn và cuồng tín.

Nó trở thành độc hại, cản trở bước tiến của thế giới con người về nơi chân thiện và vị tha. Đức tin cuồng tín và mù quáng thường dẫn sinh bạo động và chiến tranh.

Lịch sử của xã hội nhân loại đã chứng minh cho chúng ta thấy rõ điều ấy. Những kẻ kinh doanh Tôn giáo xưa và nay, đều lợi dụng đức tin mù quáng và yếu hèn của tín đồ, để ru ngủ và mê hoặc bởi những điều hứa hẹn mơ hồ, huyễn hoặc, nhằm kiếm lợi nhuận hay kích động những tính chất bạo động nơi những người có đức tin Tôn giáo mù quáng, tạo nên những chiến tranh dân tộc, thuộc địa, ý thức hệ hay tín điều mà thủ lợi không phải là những người cầm súng ra chiến trường hay là những người tiêu thụ súng đạn, mà nơi những nhà chủ trương sản xuất súng đạn và cổ vũ chiến tranh dưới nhiều hình thức và danh nghĩa khác nhau để có lợi nhuận và quyền uy.

Triết học cũng không thể nào tự có, nếu con người không có tư duy. Nhưng những tư duy sai lầm, sẽ tạo thành một hệ thống triết học dẫn xã hội con người đến chỗ phá sản tri thức và nhân tính.

Người dân chất phác, những tư duy của họ chỉ nghĩ về cơm ăn áo mặc, nhà ở mà họ không có hệ thống triết học lý luận cho họ về nhà ở, áo mặc và cơm ăn. Vì vậy, ai cho họ nhà ở thì họ theo, ai cho họ cơm ăn, áo mặc thì họ cúi đầu và ai cho họ niềm tin thì họ thờ phụng.

Nhưng, người có lương tâm, thì không nên sử dụng những phương tiện cơm ăn, áo mặc, nhà ở, niềm tin mù quáng để dụ dỗ và mê hoặc lòng họ. Nói dối với trẻ thơ, thì tội lỗi gấp mười lần so với nói dối với người lớn! Và nói dối với nhân loại thì tội lỗi tăng lên gấp cả triệu lần so với sự tự lừa dối chính mình.

Và sự tự lừa dối chính mình, thì không có bất cứ khả năng nào để có thể tự cứu rỗi và cũng không ai có thể cứu rỗi nổi người tự lừa dối.

Văn hóa, học thuật và nghệ thuật cũng có gốc rễ từ nơi tư duy của con người. Tư duy sai lạc, thì văn hóa, học thuật, nghệ thuật biểu hiện từ tư duy ấy cũng chỉ là những sản phẩm phù phiếm, nửa vời, như những người ngồi bên nầy bán cầu mà khen ngợi hay chỉ trích những gì đang diễn ra ở bên kia bán cầu!

Những người ở bên nầy bán cầu chỉ trích hay khen ngợi những gì đang xảy ra ở bên kia bán cầu, họ nào đâu có biết là ở bên kia bán cầu đang sinh hoạt trong những thời điểm và những tư duy mà những múi giờ chuyển động của địa cầu đang hoàn toàn chênh lệch và trái ngược, vì vậy mà bên nầy mọi người đang ngủ thì bên kia mọi người đang thức, người đang thức có thể nói gì với người đang ngủ và người đang ngủ nghe và hiểu được gì từ những ngôn ngữ hay ý tứ của người đang thức!

Con người không có tư duy, thì chẳng có gì để gọi là văn hóa, học thuật và nghệ thuật cả.

Người có tư duy hữu ngã và ích kỷ, thường muốn đem tư duy của mình áp đặt lên tư duy của người khác và buộc người khác đi theo hướng tư duy của mình. Họ biến con người trở thành những con bò và họ tự biến họ trở thành những kẻ chăn bò và họ là kẻ chăn bò cho một người chủ duy nhất do họ tưởng tượng.

Tưởng tưởng về một ông chủ hay một bản ngã sẽ đưa con người đi tới với đời sống của tham lam, thù hận, bạo động, chiến tranh, thất vọng và khổ đau. Đây là chân lý, vì nó không riêng gì cho người bên này bán cầu hay bên kia bán cầu. Không riêng gì cho người có Tôn giáo hay không Tôn giáo. Không riêng gì cho người xưa hay người nay và không riêng gì cho kẻ trí thức hay người mông muội.

Hễ đứng ở đâu, ở thời điểm nào mà có tư duy hữu ngã và ích kỷ, thì có lòng tham, có sự sân hận, có mù quáng và nhất định chúng sẽ dẫn sinh tranh cãi, bạo động, chiến tranh, sợ hãi, thất vọng và khổ đau.

Nên, tư duy hữu ngã, sẽ tao ra nền văn hóa hữu ngã. Văn hóa hữu ngã chỉ là văn hóa của chiến tranh, mọi học thuật đi từ hữu ngã là để đầu độc thực hiện chiến tranh và mọi nghệ thuật đi từ hữu ngã chỉ là để kích động chiến tranh, nên khổ đau xẩy ra là điều tất yếu, không có gì để cho ta ngạc nhiên.

Ở nơi nào có “tự ngã” ở nơi đó có hận thù và chiến tranh. Hòa bình không bao giờ có mặt ở nơi những Tôn giáo hay nơi những nền văn hóa giáo dục, nghệ thuật, âm nhạc đề cao tự ngã với những tham vọng quyền năng, gom thu hết cả muôn dân về một đầu mối.

Bản chất của lòng tham là xấu và nó là thuộc tính tạo nên tội lỗi. Lòng tham càng lớn thì tính xấu càng nhiều và thủ đoạn càng lắm, cho dù nó có khoác lên bất cứ hình thức áo mão hay ngôn ngữ diễm lệ hoặc ca nhạc thánh thần nào.

Lòng tham là nguồn gốc của mọi tội lỗi và là nơi cất chứa của mọi thù hận và mù quáng! Phụng thờ và khiếp nhược trước thần linh, không phải là đi từ tính cách lễ phép của con người, mà đi từ nơi tính chất hèn yếu, ích kỷ và tham lam của nó.

Con người càng ích kỷ, thì họ càng đam mê thần linh và họ muốn vay mượn thần linh để thỏa mãn những nhu cầu ích kỷ của họ. Nhưng không có thần linh nào ở trên trời hay ở dưới đất có thể đáp ứng nổi lòng tham của con người. Con người có thể yếu đuối về thể chất, nhưng lòng tham của họ lại mãnh liệt và dẻo dai vô cực.

Thần linh thì không làm cho ai mê muội, nhưng mê muội là do tính ích kỷ nơi con người đối với thần linh. Thần linh là sự linh thiêng, trong sáng và linh hoạt của tinh thần. Thần linh như thế ai cũng có, loài nào cũng có và ngay cả nơi muôn vật cỏ cây cũng đều có. Có mà không có khả năng biểu hiện là do tính tham dục nơi tâm con người và chúng sinh hay do tính chất tiếp nhận hỗn tạp thiếu gạn lọc từ nơi các lưu mạch của mọi sự hiện hữu.

Người đệ tử của Phật, có ba pháp hành cần phải thực tập mỗi giây, mỗi phút, mỗi giờ, mỗi ngày để lọc đi những tạp nhiễm của thân tâm, khiến cho nguồn mạch sáng trong, linh tâm tinh duệ. Ba pháp hành ấy chính là Văn Tư Tu.

Văn là lắng nghe, để lọc những gì tạp nhiễm do nghe đem lại, khiến cho tâm không bị ô nhiễm bởi nghe. Ta thực tập hạnh lắng nghe như vậy, nhuần nhuyễn, tuệ giác sẽ sinh khởi trong đời sống của ta. Tuệ giác sinh khởi từ hạnh lắng nghe như vậy, gọi là văn tuệ.

Tư là chiêm nghiệm sau khi nghe, sau khi thấy và sau khi các quan năng tiếp xúc với các đối tượng, ta thấy điều gì có khả năng đem lại lợi ích thiết thực cho sự thực tập đời sống giải thoát, giác ngộ cho ta, cho người, cho đời nầy và đời sau, thì ta chọn lấy để thực tập, và nếu sau khi chiêm nghiệm, thấy nó phù hợp với thời cuộc và tương ưng với ngũ dục mà không lợi ích gì cho sự thực tập đời sống giải thoát, giác ngộ cho mình, cho người, cho đời nầy và đời sau, thì mình dứt khoát không làm. Tuệ giác sinh khởi từ hạnh chiêm nghiệm hay tư duy như vậy, gọi là tư tuệ.

Tu là ứng dụng những gì mình đã quyết tâm lựa chọn, sau khi đã trải qua hạnh lắng nghe và hạnh chiêm nghiệm. Tuệ giác sinh khởi từ sự tu tập, ứng dụng gọi là tu tuệ.

Thực tập các pháp môn Văn Tư Tu như thế mỗi ngày, tuệ giác ở nơi đời sống của ta sẽ phát sinh và tâm khoan dung độ lượng, không kỳ thị nơi ta cũng từ đó mà sinh khởi.

Bấy giờ, tâm ta tuy độ lượng, nhưng không để cho bất cứ ai lợi dụng tâm độ lượng của ta, mà làm những công việc phi độ lượng, ấy mới gọi là phẩm chất độ lượng do thực hành pháp môn Văn Tư Tu tựu thành; bấy giờ tâm ta tuy khoan dung, nhưng không để cho bất cứ ai lợi dụng tâm khoan dung của ta, để làm những công việc phi khoan dung, hại mình, hại người, ấy mới gọi là phẩm chất khoan dung do thực hành pháp môn Văn Tư Tu tựu thành; bấy giờ tâm ta tuy không phân biệt kỳ thị, nhưng ta thấy nhân quả không sai, chân ngụy rõ ràng, chính tà phân minh, thiện ác không xen tạp, khiến cho bất cứ ai không thể lợi dụng sự không kỳ thị phân biệt của ta, để làm những công việc kỳ thị phân biệt, ấy mới gọi là không kỳ thị phân biệt, do thực hành pháp môn Văn Tư Tu tựu thành.

Nếu thiếu sự thực tập miên mật đối với pháp môn Văn Tư Tu hay Chính Niệm Tỉnh Giác, thì tà niệm khởi sinh, khiến cho mọi việc làm hay sự tu tập của ta đều rơi vào tình trạng “Trống đánh xuôi kèn thổi ngược”, hay như công án của một Thiền Sư đã nêu lên từ xưa để cảnh giác chúng ta “Đầu lọt, bụng lọt, đuôi không lọt”.

Vì vậy, chúng ta phải cẩn mật tu hành, luôn tỉnh giác đối với thân, thọ, tâm và pháp, qua các quan năng nhận thức, đừng lạm dụng ngôn từ, đừng lạm dụng các phương tiện tùy duyên hay ngoại giao, để rồi tự lừa dối chính mình mà rơi vào ma nghiệp!

Sunday, April 8, 2012

CÔNG ĐỨC CŨNG PHẢI HƠN NGƯỜI


Đã đến đền, chùa là phải làm công đức. Nhiều người đã có suy nghĩ như vậy. Thậm chí, theo một nhà nghiên cứu, có người khi được hỏi còn thốt lên: “Không công đức thì sợ thánh vật!”. Ngoài ra, còn có tâm lý đua tranh, thấy người ta công đức một, thì mình phải gấp đôi hoặc gấp ba.

Từ chuyện hiểu sai ý nghĩa thực sự của việc làm thiện nguyện này, nhiều hệ quả đáng tiếc đã xảy ra. Những ngày lễ, tết, tiền lẻ đặt giọt dầu vung khắp nơi. Làm công đức, nhưng lại muốn lưu danh trên “bảng vàng” là các tấm bia đá, lại có giấy chứng nhận tên tuổi cùng số tiền đã đóng góp.

Tréo ngoe đồ công quả

Bên cạnh việc công đức bằng tiền, nhiều nhà hảo tâm có thành ý tặng đền, chùa những đồ thờ cúng, hoành phi, câu đối... nhất là những đền chùa trong quá trình tu bổ. Tuy nhiên, vì nhiều ban quản lý chùa cũng như một số sư trụ trì không đưa ra yêu cầu về niêm luật, quy định, nên nhiều khi đồ cống tiến lại... dở khóc dở cười. Có những người tặng nghê, sư tử đá... cho chùa. Có chùa còn được tặng rất nhiều cây bonsai, ghế đá chi chít chữ quảng cáo cho doanh nghiệp, những đôi lục bình khổng lồ, rất kệch cỡm. Không ít phật tử từng choáng khi nhìn thấy đèn chùm phương Tây tại gian thờ Phật Quan Âm ở chùa Một Cột (Hà Nội), không liên quan cả về kiến trúc và văn hóa. Hỏi ra mới biết, không chỉ có một chùm, mà tới 5 chùm đèn như thế, do một phật tử dâng tặng.

Có đền lại được dân cung tiến rất nhiều vải, dẫn đến thừa mứa, không biết xử lý ra sao, đành chia nhỏ để phát cho khách thập phương, coi như lộc Thánh. Việc tiếp nhận đồ công quả không theo nguyên tắc đã phá vỡ hệ thống bài trí trong nội tự của di tích, khuôn viên. Thanh tra Bộ VH-TT-DL đã chỉ ra rằng ở một số địa phương xảy ra hiện tượng nhiều nhà chùa, thủ nhang sửa đền, chùa đã được xếp hạng, mua sắm đồ thờ tự, tượng phật để mang vào di tích, từ đó dẫn đến sự biến dạng một số hạng mục của những di tích này. Cụ thể là: xây mới nhà 5 gian tại Lăng mẫu Liễu Hạnh (Phủ Dày - Nam Định), đặt tượng nghê đá tại Đền Gióng (Sóc Sơn - Hà Nội), dựng bia công đức trên lưng Rùa tại chùa Keo (Thái Bình), xây mới nhà trên đường xuống hang Cắc Cớ (Chùa Thầy - Hà Nội)…

PGS-TS Lương Hồng Quang, Phó Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật, nhận định: Theo truyền thống, nếu đền, chùa cần được cung tiến hiện vật, chủ sở hữu, sư trụ trì... đều biết mình cần gì, họ sẽ loan báo trong cộng đồng. Người muốn cung tiến phải xin phép làng, nếu được đồng ý thì mới cung tiến và quá trình đóng góp đó có sự giám sát hết sức chặt chẽ của Ban quản lí di tích. Nhờ vậy, đồ tiến cúng theo đúng nhu cầu của đền, chùa, miếu mạo, không xảy ra chuyện sai khuôn mẫu văn hóa, nghi thức, cũng không bị thừa. Ông Quang cũng cho hay, người cung tiến trước đây hiểu rõ mình được những quyền lợi gì về tinh thần và hiểu tích đức phải thầm lặng, không được kể công, không được trương tên ra. “Có vẻ như ngày nay, ở một đôi chỗ, người làm công quả lại có quyền lớn hơn, có cảm giác như họ đang ban phát, tài trợ lại cho nhà đền”, ông Quang nhận xét.

Công đức cũng phải đúng cách

GS Ngô Đức Thịnh cho rằng: Chúng ta đang bị thiếu nghiêm trọng hiểu biết nghi thức truyền thống, bởi không được thực hành sau mấy chục năm trời cấm đoán vì cho đó là mê tín dị đoan. Cũng vì vậy, đến khi thay đổi chính sách, dù trăm hoa đua nở, nhưng đa số đều không nắm bắt các khuôn mẫu truyền thống, nên hành xử không theo cách nào cả. Ông nhấn mạnh, không chỉ cần thiết nâng cao hiểu biết của dân trí, mà cả “quan trí” nữa.

Trong khi đó, khía cạnh thế tục đang can thiệp vào quá lớn, khiến ý nghĩa nhân văn, đạo đức phai nhạt dần. Theo một thống kê không chính thức, trong số những người làm công đức, nhiều nhất là các tiểu thương, kế đến là doanh nghiệp, dân trung lưu đô thị, cán bộ công chức. Nhiều người thực hiện các nghi lễ tôn giáo theo tâm lý bầy đàn, đua tranh. Lợi dụng tâm lý đó của người đi lễ, nhiều nhà đền, nhà chùa coi di tích như một cỗ máy hái ra tiền. Một số BTC lễ hội lại đi xin tài trợ dựa trên nền tảng công đức, dẫn đến ý nghĩa của việc làm này bị biến chất. Một quan chức ngành văn hóa đã phải lên tiếng cảnh báo: Có ngôi chùa như một “công ty cúng bái”! Bộ trưởng Bộ VH- TT-DL Hoàng Tuấn Anh từng khẳng định: “Ở những nơi linh thiêng như đền chùa mà tồn tại tiêu cực thì đó là điều không chấp nhận được!”.

SỐNG ĐƠN GIẢN


Hoàng Phước Đại

Một thiền sư nổi tiếng người Việt Nam, kể lại câu chuyện về ý thức bảo vệ thiên nhiên của người dân tộc mà ông có dịp tiếp xúc.

Câu chuyện đại ý như sau:

Năm 1951, thiền sư đi cùng vài tu sĩ đến một ngọn núi xa xôi ở khu vực Đại Lào, thuộc tỉnh Lâm Đồng, Việt Nam để xây dựng trung tâm thiền định. Vì không quen thuộc địa hình và công việc liên quan đến xây dựng thiền viện nên thiền sư đã nhờ một số người dân tộc giúp đỡ. Người dân tộc được thuê làm việc rất chăm chỉ. Nhà sư rất biết ơn về sự trợ giúp của họ. Nhưng sau khi làm việc được ba ngày, họ không đến nữa. Vì không có sự giúp đỡ của họ, công việc xây dựng bị ngừng trệ. Thiền sư đi tìm gặp và hỏi tại sao họ không đến giúp. Họ nói: "Tại sao chúng tôi phải quay lại làm sớm như vậy? Các thầy đã trả đủ tiền để chúng tôi sống trong một tháng rồi. Chúng tôi sẽ trở lại khi chúng tôi hết tiền mua gạo".

Nhiều người chỉ trích tập tục này của người dân tộc. Họ nói rằng người dân tộc rất lười biếng. Họ cho rằng người dân tộc sẽ sống cuộc sống hạnh phúc và thoải mái hơn người xuôi nếu họ chăm chỉ làm việc. Nhưng thiền sư lại đánh giá cao sự khôn ngoan của người dân tộc. Đó là lối sống trí tuệ, hơn hẳn quan điểm về cuộc sống của người văn minh đang đắm mình trong cuộc sống hiện đại và kinh tế tăng trưởng.

Người Thượng sống đơn giản. Họ không lưu trữ nhiều thức ăn, không có ngân hàng tài khoản. Nhưng họ có nhiều hơn sự thanh thản và bình an. Trong khi đó, chúng ta đã phải lao tâm khổ tứ để tìm kiếm hạnh phúc và tiện nghi hưởng thụ. Một số người luôn nghĩ rằng họ cần nhiều nhà, nhiều đất đai - một cái ở thành phố để đi làm, một cái ở thôn quê để nghĩ dưỡng và vài miếng đất để phòng thân. Trong thực tế, nếu sở hữu một ngôi nhà sang trọng, chúng ta cũng hiếm có thời gian để thưởng thức chúng. Ngay cả khi có thời gian, nhiều người lại không biết cách làm thế nào để ngồi thanh thản. Một số người luôn luôn tự tìm phút giây thanh thản thông qua những cuộc vui ở nhà hàng, nhà hát, hoặc bên bữa ăn tối, kỳ nghỉ nhưng thực tế lại làm cho mình mệt mỏi nhiều hơn.

Ngày nay, chúng ta đi đến một quán cà phê chỉ vì buồn, hoặc vì công việc, dự án kinh doanh, chứ không phải để cảm nhận bản thân mình. Chúng ta sở hữu một căn nhà hầu như không có thời gian để sống trong đó. Chúng ta rời khỏi nhà vào buổi sáng sớm sau một bữa ăn nhanh chóng và vội vã đến nơi làm việc. Sau đó, bạn trở về nhà mệt mỏi, ăn tối, xem tin tức, lên giường ngủ để ngày mai có thể dậy sớm làm việc. Trong khi đó, những người dân tộc bằng lòng sống trong căn nhà tre đơn giản, những túp lều lá cọ và giặt quần áo bằng tay. Họ từ chối nô lệ kinh tế. Họ sống đơn sơ, nhưng không phải dành thời gian, tiền bạc để đi khám những căn bệnh liên quan đến stress.

Người dân tộc trồng thực phẩm cho gia đình và trao đổi với người khác. Người dân tộc không làm tổn hại đến thiên nhiên. Họ sử dụng lượng gỗ đủ để xây dựng nhà ở, khai phá đủ quỹ đất để trồng cây. Bởi lối sống đơn giản, họ đã không tàn phá tài nguyên thiên nhiên, không gây ô nhiễm không khí, nước và đất. Việc khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên đều bị dân làng phạt thông qua các quy định của buôn làng. Ngày này, người hiện đại cũng phải biết học nét đẹp từ người dân tộc.

Chúng ta luôn nghĩ cách làm giàu và tiêu thụ cho bản thân nhưng không nghĩ đến những thiệt hại về môi trường. Chúng ta đang đi trên một con thuyền của hành tinh. Nếu không cố gắng giúp đỡ con thuyền đó, thì chúng ta cũng sẽ bị nhấn chìm bởi nạn hồng thủy, bão tố.

Tăng trưởng kinh tế là cần thiết để đem lại phúc lợi cho người dân, nhưng tăng trường tỷ lệ quá mức so với tỷ lệ hủy diệt môi trường đồng nghĩa với thất bại. Chúng ta là một phần của thiên nhiên, làm hại đến thiên nhiên có nghĩa là làm hại đến bản thân.