Wednesday, January 19, 2011

BẠN BIẾT GÌ VỀ RAJA YOGA?

RAJA có nghĩa là vua [royal]. YOGA là sự kết hợp. RAJA YOGA là một loại Yoga quý báo nhất. Người xưa gọi đó là ông vua của tất cả loại Yoga.

PATANJALI là người đã có công biên soạn YOGA thành sách 200 năm trước công nguyên, và những người kế thừa tập Yoga đã có kết quả đều quả quyết rằng " RAJA YOGA SẼ GIÚP CHO CON NGƯỜI KHÁM PHÁ NHỮNG BÍ MẬT CỦA VŨ TRỤ VÀ TÔN GIÁO". Tuy nhiên sự quả quyết của những người tập Yoga chưa đủ làm cho các nhà khoa học hoàn toàn tin cậy, vì Yoga lấy cái vô hình làm tài liệu nghiên cứu, nên không thể chứng minh cho mọi người có thể hiểu được, bởi vì cái hữu hình không thể chứng minh cho cái vô hình. Hơn nữa RAJA YOGA là môt môn TU và KHỔ LUYỆN, mà muốn có kinh nghiệm là cần phải tập luyện, nếu không KHỔ LUYỆN chắc chắn là không thể nào hiểu được.

Khoa học ngày nay tuy đã tiến triển rất nhiều, nhưng không phải vì thế mà khoa học đã giải quyết được tất cả bí mật của vũ trụ. Khoa học do con người mà có, nhưng sự hiểu biết của con người còn bị giới hạn vào 5 giác quan. Tai để nghe âm thanh, mắt để nhìn ánh sáng và màu sắc.

Nói về màu sắc; như màu đỏ mà chúng ta trông thấy, không ai biết thực chất của nó như thế nào? Loài vật cũng có mắt để nhìn, nhưng màu đỏ của ta có phải là màu đỏ của loài vật không? Ai biết được? Ngay trong chúng ta đây, có những người mắc bệnh về màu sắc, họ không biết màu đỏ, mà chỉ biết có màu xanh. Những người đó là thiểu số, nên ta bảo rằng người đó bị bệnh, trái lại nếu những người đó đa số thì họ sẽ bảo ta mới chính là người bị bệnh. Việc này cũng giống như câu truyện "xứ của người mù" [The Country of the blinds].

Trong câu truyện "xứ của người mù", truyện được kể rằng: Có những người sinh ra ở nơi đó đã bị mù nhiều đời, nên họ không biết gì là màu sắc hay ánh sáng cả. Một ngày kia có một người đi dạo chơi, bổng bị lạc vào xứ đó và anh ta nói về màu sắc và ánh sáng v.v... thì những người trong xứ mù bảo anh ta là loạn óc, là tâm thần...dù anh ta có nói ra được những gì mình thấy, nhưng không thể chứng minh được cho người xứ mù là anh ta có mắt để nhận biết về màu sắc.

Các điều trên chứng tỏ rằng giác quan không phải là thước đo sự thật, giác quan có khi hướng dẫn ta đến sự nhầm lẫn. Khi hai con tàu dừng lại trong một sân ga để tránh nhau, lúc con tàu bên kia chạy, ta có cảm giác là con tàu của mình đang chạy. Và ngày xưa, cảm giác đã hướng dẫn người ta có một cái nhìn là "mặt trời xoay quanh trái đất".

Con người bị giới hạn vào 5 giác quan, giác quan lại không phải là thước đo sự thật, vì vậy nếu cứ phải chứng minh cho "người xứ mù" trông thấy được màu sắc hay cứ phải có sự chứng nhận của giác quan thì mới tin, như vậy thật là vô lý. Để chế nhạo quan niệm tuyệt đối tin vào khoa học của một số người, Swami Vivekananda đã kể một câu chuyện sau : " có một cô học trò vào thi vấn đáp, ông thầy hỏi cô ấy rằng, tại sao quả đất không rơi? Khi hỏi câu ấy, ý ông thầy muốn nói đến luật hấp dẫn của mặt trời. Nhưng cô học trò thông minh nên không trả lời câu hỏi, mà lại hỏi ông thầy rằng, nếu trái đất rơi thì rơi vào đâu"?

Trên đây là phần lý luận để chứng minh cho sự hữu lý của thế giới vô hình, nhưng RAJA YOGA chủ trương cái gì? Và có mục đích gì?

- RAJA YOGA chủ trương rằng trong nội tâm con người có tất cả bí mật của vũ trụ, và tập Yoga là để khám phá ra cái bí mật ấy. Nếu ta đem sự quan sát ấy hướng về nội tâm, thì dần dần ta sẽ làm chủ được các cơ quan đang chuyển động trong cơ thể con người [PRANAYAMA]. Tuỳ theo môn phái tu , có người làm cho tim ngừng đập, có người ngưng thở trong một thời gian dài mà vẫn sống, đây là những câu chuyện mà ta thường đọc trên sách báo hoặc tài liệu. Đối với người tập Yoga thì chuyện đó không có gì là lạ cả, nhưng chúng ta cần phải  lưu ý rằng RAJA YOGA là một môn tu và khổ luyện để tìm con đường giác ngộ, giải thoát, chứ không phải là cầu được quyền năng hay phép lạ. Những phép lạ ấy sẽ đưa con người tới con đường tự phụ, kiêu căng, vì vậy người tu không nên mong cầu có nó, nếu tự nhiên nó có thì đừng có đem ra biểu diễn , khoe khoang. Tập Yoga mà có đời sống không trong sạch thì sẽ bị điên, "đó là lời cảnh báo của đạo sư Swami Vivekananda".

Về phương diện tu hành, RAYA YOGA quan niệm rằng, trong con người của ta có một cái gì đó bất diệt và trường tồn. Cái bất diệt trường tồn đó, trong đạo phật gọi là chân tâm, hay chân ngã, nhưng nó bị sóng tâm thức làm xao động, khuấy đục, nhiễm ô. Tập RAYA YOGA là tập một phương pháp để diệt sóng tâm thức điên đảo, khi vọng tưởng dứt thì chơn tâm hiện diện.

Saturday, January 15, 2011

ĐÁP ÁN CUỘC THI TÌM HIỂU TIỀM NĂNG CON NGƯỜI (Phần 2)

Hỏi : “Âm phủ ở đâu ?”

Đáp án tham khảo:

Có tồn tại vong không? Thực tế cô Năm Nghĩa, Phan Thị Bích Hằng và nhiều nhà ngoại cảm khác có khả năng giao lưu với người đã chết không chỉ nghe mà còn nhìn thấy họ. Vong là những vật chất vi hạt có tốc độ cao mà mắt, tai người bình thường không nhận biết được.

Nhà bác học thiên tài Einstein đã cho chúng ta một công thức bất hủ E = mc2. Nhà bác hoc Einstein cùng với các nhà bác học khác làm một thí nghiệm cho một cây thước di động theo chiều dài ở tốc độ 150.000 km/s thì cây thước mất đi 1/3 độ dài. Cho cây thước chuyển động bằng tốc độ ánh sáng 300.000 km/s thì mắt không nhìn thấy cây thước nữa mặc dù cây thước vẫn tồn tại. Điều đó giải thích một vật chất có vận tốc quá cao thì mắt người bình thường không nhìn thấy được nhưng Phan Thị Bích Hằng vẫn nhìn thấy. Như vậy ta thấy âm phủ không phải ở dưới lòng đất mà hiện hữu ở xung quanh ta.
(Phạm Văn Phú)

Hỏi: “Lời khuyên của bạn cho một người đang phân vân khi chọn pháp (khí công, thiền, cảm xạ, nhân điện…)  thực hành luyện tâm?”       
Đáp án tham khảo:

•    Vai vế của người cho lời khuyên: Thày giáo đang dạy một pháp tập luyện tâm? Người đang thực hành pháp luyện tâm?
•    Kinh nghiệm của người cho lời khuyên: Đạt thành tựu? Người cho lời khuyên nên cho biết mức độ lời khuyên bảo chỉ mang tính chất tham khảo; sự trải nghiệm về pháp mà họ đang thực hành hiệu quả như thế nào để người người đang nhận lời khuyên có thêm suy xét tiến tới pháp mà mình muốn chọn.
•    Không nên xui, bảo người theo pháp mình đang thực hành vì vô tình đã chọn hộ người để không bị trách chọn lầm...
•    Người nhận lời khuyên không nên dựa hẳn vào lời khuyến cáo, chỉ bảo của người khác mà nên tự mình tìm hiểu để quyết định xem nên làm gì, như thế nào.

Vạn pháp như nhau nhưng tùy theo khả năng về tài chính, mong muốn chắt lọc tinh hoa của pháp và thể trạng của mình, người muốn bước vào pháp tập luyện tâm nên tự quyết định xem mình nên làm gì, như thế nào; lựa chọn pháp thực hành không khó, cái khó thuộc về sự kiên trì theo đuổi nó.
(Mai Văn Như)

Hỏi: “Bạn hiểu bộ nhớ gene (di truyền) là gì?”
Đáp án tham khảo:

Các nhà khoa học cho rằng chúng ta mới chỉ sử dụng 1/10 năng lực của não, còn 9/10 ta chưa sử dụng. Vậy 9/10 có chứa trí nhớ gene không.
Mỗi một người khi sống những kiến thức thu được trong cả cuộc đời được lưu cất giữ ở những phân tử protien của tế bào đó là trí nhớ gene. Khi ta chết đi trí nhớ này vẫn tồn tại, có thể ở đó đã tích chứa những ký ức, hình ảnh, sự kiện của nhiều kiếp trước. Thực tế trên thế giới ta thấy có những em bé mà chúng ta gọi là “thần đồng” mới có 10 tuổi đã vào đại học, hay có em bé 6 tuổi đã biết sáng tác nhạc, 9 tuổi đã chơi nhạc trong dàn nhạc giao hưởng cùng với những nhạc công gạo cội. Ở Việt Nam ta cũng có em bé 3 tuổi chưa đi học đã biết đọc báo hay có em làm tính nhẩm rất nhanh thậm chí khai căn bậc 5 mà chỉ nhẩm trong tích tắc ra kết quả. Đặc biệt ở nước Anh có cô gái 28 tuổi, một buổi sáng thức dậy bỗng dưng cô không nói tiếng anh, không nhận biết cha mẹ mình mà cô nói bằng tiếng tây ban nha rất chuẩn. Cô nói cô ở một làng quê Tây Ban Nha, bị giết do một người bạn gái. Sau đó người ta kiểm tra và thấy đúng ở làng quê Tây Ban Nha đó có người con gái đã giết cô, người đó vẫn còn sống lúc này đã hơn 90 tuổi. Và rất nhiều ví dụ khác, như vậy ta thấy trí nhớ gene được lưu trữ qua các đời.

(Phạm Văn Phú)

Hỏi: “Theo bạn hiểu thì môn nghiên cứu và ứng dụng năng lượng địa sinh học dùng phương tiện gì để xử lý năng lượng độc hại một cách có hiệu quả?”
Đáp án tham khảo:

Có nhiều phương cách để xử lý năng lượng độc hại:
1. Phương tiện tự nhiên:
•    Các loại đá quý, nhất là các loại thạch anh,
•    Các loại thực vật cây kiểng: loại bỏ các loại cây có phát sóng âm tính, và thay vào là các loại thực vật dương tính như cây xương rồng, như bát tiên chẳng hạn, v.v…
2. Phương tiện vật lý: bao gồm:
•    Kim tự Tháp,
•    Quả cầu 12 mặt,
•    Lò xo từ tính,
•    Vòng tương hỗ, v.v…
•    Đặc biệt lò xo từ tính và vòng tương hỗ rất dễ làm và thích hợp với người VN ta. Qua trải nghiệm ở một số nơi thì thấy kết quả rất đáng tin cậy.
3. Phương tiện năng lượng:
•    Dùng nguyên lý chuyển đổi năng lượng độc hại ra năng lượng hữu ích, với máy chuyển đổi có tên là Cleanergy, rất thông dụng ở Âu châu, Mỹ châu, nhưng vì đắt tiền nên không phổ biến ở nước ta.
•    Dùng năng lượng sức sống vũ trụ, tên nói gọn là REIKI, rất dễ ứng dụng nhất là những ai có thực hành luyện tập REIKI, rất hiệu quả.   
(Nguyễn Minh Trí)

Hỏi: “Mối quan hệ tâm năng và vô thức”
Đáp án tham khảo:

Chúng ta biết khi vô thức hoàn toàn não của ta phát sóng ở tần số gamma < 1 Hz. Mà tần số càng thấp thì bức xạ năng lượng dưới dạng sóng càng mạnh, có nghĩa là ta có một năng lượng cao. Năng lượng cao này được định hướng và mang thông tin của chú nhân đó chính là tâm năng của ta.
Nếu ta thường xuyên đạt được trạng thái vô thức thì không những bản thân ta có một năng lượng cao mà ta còn khai mở phần tâm linh mà ta chưa biết như ta có thể giao tiếp với những người đã chết hay đoán biết sự việc sắp xảy ra v.v..
Các nhà khoa học đã nghiên cứu và thấy cho dù ta có sống đến 100 tuổi thì cũng chỉ mới sử dụng được 1/10 năng lực của não, còn 9/10 là điều bí ẩn mà ta chưa sử dụng được.
Ở câu lạc bộ của ta do luyện tập mà thầy Phương có khả năng tìm mộ, thầy Như phát âm thanh đưa năng lượng và những khả năng khác. Gần đây có chị Châu học thầy Như cũng có khả năng là phát ra một ngôn ngữ lạ. Đó có phải họ đã khai mở một phần nào đó của 9/10 bí ẩn của não không ?
(Phạm Văn Phú)

Hỏi: “Bạn biết có bao nhiêu loại và dạng dụng cụ cảm xạ? Hình dáng và vật liệu làm dụng cụ cảm xạ có quyết định độ nhạy và độ chính xác của kết quả thực hành cảm xạ hay không ? Yếu tố nào quyết định độ chính xác của việc thực hành cảm xạ?”
Đáp án tham khảo:

Hiện nay có các loại và dạng dụng cụ cảm xạ:
    a/ Quả lắc với nhiều hình dạng, kích cỡ to nhỏ khác nhau;
    b/ Đôi đũa cảm xạ bằng kim loại, bằng gỗ;
    c/ Cành cây dịu làm “Roi thần” cảm xạ; đũa Mi-sen cảm xạ bằng nhựa hoặc kim loại có tính chất như cành cây dịu vừa kể; cặp gậy cảm xạ bằng gỗ hoặc cặp ngọn cây tầm vông hay cặp gậy kim loại làm cặp “gậy thần” cảm xạ;
     d/ Ngoài ra, người ta còn dùng bộ phận cơ thể như đầu, cánh tay, các ngón tay để thực hành cảm xạ;
    e/ Ở các nước khác, các nhà cảm xạ đã nghĩ ra nhiều dụng cụ cảm xạ có kết cấu hình dạng khác nhau.
Hình dạng và vật liệu được dùng làm dụng cụ cảm xạ không là yếu tố quyết định độ nhạy và độ chính xác của kết quả thực hành cảm xạ.  Độ nhạy và độ chính xác của kết quả thực hành cảm xạ là do tiềm năng, sự rèn luyện nhuần nhuyễn, ý thích, sự chuyên dùng, thói quen nhất quán của nhà cảm xạ. Tuy nhiên, chuyên dùng một loại dụng cụ cảm xạ, thực hành cảm xạ thuận lợi hơn là lúc dùng thứ này lúc sử dụng thứ khác.
(Huỳnh Bửu Hòa)

Hỏi: “Lấy năng lượng từ vũ trụ để làm gì?”
Đáp án tham khảo:

Theo các nhà khoa học nghiên cứu thấy trong 1 lít không khí có 78% Nitơ, 21% dưỡng khí O2, 0,04% CO2 và 0,00005% Hydro. Đặc biệt hơn cả là 0,93% các ion như Argon, Helium, Krupton, Xenon, Halon, Methane...
Khi ta hít vào trên 1 lít không khí những ion này vào đến phổi, tại phổi chúng được ion hóa thành những ion âm và những ion dương theo máu đi đến khắp các cơ quan của cơ thể. Chúng ta biết rằng 70% bệnh tật là do sự mất cân bằng âm dương của một bộ phận hay cơ quan nào đó. Những ion âm, ion dương này giúp cho sự cân bằng đó. Tại cơ quan, bộ phận nào đang cần ion dương thì ion dương đi vào cơ thể để cân bằng. Chính vì vậy mà giúp ta phục hồi được sức khỏe. Dựa theo nguyên lý này mà ở Việt Nam ta sản xuất máy tạo ion âm theo bản quyền của Nhật. Nhưng máy này chỉ phục hồi những bệnh đang thiếu ion âm còn những bệnh thiếu ion dương thì không giải quyết được. Cho nên không gì hơn là chúng ta phải tập luyện để tạo ra cả ion âm và ion dương. Tập luyện đúng cách để chúng ta đưa vào cơ thể những ion như vậy giúp ta phục hồi sức khỏe cũng có nghĩa chúng ta tăng cường sức khỏe cho bản thân.
(Phạm Văn Phú)

Hỏi: “Thân người là quí báu”

Đáp án tham khảo:

Thân con người do kết quả của:
•    Tinh cha huyết mẹ kết hợp mà thành hoặc thuyết tái sinh của phật giáo cho rằng do nghiệp lực của chúng sinh mà thân người hình thành vì “hương” thực ấm muốn tái sinh vào trứng người mẹ khi đang giao hợp với người cha;
•    Thụ thai trong ống nghiệm;
Và hình hài trong thai phải ra đời thành một con người hoàn chỉnh có trí tuệ.

Quí:
•    Mẹ mang nặng đẻ đau 9 tháng 10 ngày;
•    Khả năng có được một thân người khó: hình hài trong thai phải đương đầu với muôn vàn khó khăn (sự khó khăn lớn đến mức có thể ví rằng nếu con rùa mù cứ 100 năm mới nổi lên trên mặt nước biển một lần tròng đúng cổ của nó vào chiếc vòng trôi dạt trên biển và khả năng tròng được chiếc vòng chỉ có sác xuất giống như một hạt cải bay miên man trước gió trên cánh đồng hoang cắm trúng được vào đầu cây kim) trong bụng mẹ hoặc trong ống nghiệm để tồn tại phát triển và được ra đời với con người hoàn chỉnh có trí huệ;
•    Có thân người khó vì các hiểm họa bệnh tật, thiên tai ập đến bất ngờ;
•    Người thân, bạn bè thương tiếc cho tấm thân người của ai đó ngừng hoạt động - “thân chết”;
•    Việc các vong hồn liệt sĩ không còn thân người mượn bươm bướm, chuồn chuồn thông qua các nhà ngoại cảm báo cho người thân tìm hài cốt, nấm mồ của mình có phải là bằng chứng cho thấy “mất thân quí cốt tro”? 
•    Việc hình thành các trung tâm nghiên cứu các hiện tượng như “gọi hồn”, “cầu cơ”, “áp vong”... cho thấy thiện chí của người còn sống muốn giao tiếp với “trạng thái năng lượng vô hình”? hay vì các mục đích khác cần được lý giải về mặt khoa học.

Như thế, một tấm thân người khỏe mạnh - món quà quí báu của Tạo Hóa kết hợp với  trí huệ minh mẫn là ước nguyện mà mọi người đều mong muốn luôn có được.

ĐÁP ÁN CUỘC THI TÌM HIỂU TIỀM NĂNG CON NGƯỜI (Phần 1)

Ngày 12 tháng 12 năm 2010 Ban chủ nhiệm CLB Ứng dụng Tiềm năng Con người TPHCM  đã tổ chức “cuộc thi tìm hiểu tiềm năng con người” mang tên “Mái Hiên Nhà Tôi”. Ba đội chung sức dưới các tên “Hương Thầm”, “Tre Ngà” và “Hoa Sữa” đã chia sẻ những ý kiến của mình về nhận thức và trải nghiệm tâm linh.  Ban tổ chức xin gửi đến các bạn đáp án của cuộc thi tìm hiểu về tiềm năng con người (TNCN) để tham khảo, nếu có sơ sót hoặc ý kiến không đồng mong được lượng thứ.

Hỏi: “Hiện nay phần đông cộng đồng đều hiểu biết chỗ ở hạp tuổi / hạp hướng không là chưa đủ vì còn nhiều yếu tố khác liên quan đến môi trường, đến điện từ trường, v.v… Bạn hãy kể những tác nhân ĐSH có thể làm hại đến cuộc sống của ta.”

Đáp án tham khảo:

Những bức xạ độc hại có thể phân làm các loại như sau:
1. Bức xạ có nguồn gốc tự nhiên :
Đó là các mạch, các dạng nước ngầm dưới đất, các, các đầm lầy ứ đọng, các phay khô hay ẩm ướt, các hang động dưới đất , các khoáng vật phóng xạ, v.v…
2. Bức xạ do con người tạo ra:
•    Rất nguy hiểm là đường dây điện cao thế, các trạm biến điện, các trạm tiếp sóng điện thoại di động, các trạm radar, các đài phát sóng TV, v.v…
•    Đặc biệt ít ai để ý đến là mạng lưới điện dùng trong nhà, dây điện chạy chằng chịt quanh chỗ ngủ, và nguy hiểm nhất là dùng lò vi ba, tác nhân của bệnh ung thư, điện thoại di động … 
•    Các đường hầm ngầm, các công trường khai thác đá cũ, các nơi dùng làm lò sát sinh, các đường cống cũ, các mồ huyệt, các hầm chứa bị bỏ rơi, các nơi chôn rác, các ống và hệ thống dẫn ngầm…
3. Bức xạ từ ký ức âm tính :  
•    Nơi ở mà trước đây tại nơi này đã xảy ra chiến trận hay những hành vi phạm tội như gây án mạng…),
•    Những nghĩa trang được giải tỏa để làm nơi xây cất cơ quan, cư xá, cao ốc, v.v…
•    Bệnh viện, phòng mạch đông tây y, phòng giải phẩu thẫm mỹ,
•    Phòng tập thể dục thể thao,
•    Phòng họp đông người,
•    Các sóng hình dạng âm tính từ nơi ở và chung quanh nơi ở,
•    Chủ ở trước đau bệnh ngặt nghèo và qua đời,
•    Trước đây là nơi vận hành, xử lý thông tin và điều khiển bằng hệ thống và nhiều máy móc điện tử…
(Nguyễn Minh Trí)

Hỏi: “Thời đại ngày nay, để an cư lạc nghiệp, khi xây dựng nhà ở, người ta dùng phương pháp kiến trúc y học. Vậy từ ngữ này bao hàm nội dung gì và tiến hành ra sao?”  

Đáp án tham khảo

Kiến trúc y học có nghĩa là xây dựng công trình vừa phù hợp với nhu cầu (kiến trúc theo nhu cầu người ở), vừa hài hòa với thiên nhiên, có trường khí tốt, người ở không bệnh tật, có sức khỏe tốt (phù hợp với y học), những người cùng cư ngụ không xung khắc nhau (kể cả “khắc khẩu), lại gắn bó nhau, thương yêu, giúp đỡ nhau. Mọi người đều “AN CƯ” và từ đó “ăn nên làm ra” để “LẠC NGHIỆP”.
Qui trình rất đơn giản nên được tiến hành như sau:
1.    Khảo sát địa sinh cuộc đất trống hoặc nhà cũ để phát hiện các loại bức xạ độc hại nếu có và đề ra cách xử lý .
2.    Kết hợp mục tiêu xây dựng và kết quả khảo sát địa sinh để lên bảng vẽ kiến trúc nội, ngoại thất sao cho hài hòa.
3.    Sau khi lên bảng vẽ kiến trúc xong nên sơ bộ đo đạc chỉ số Bovis và điều chỉnh nếu cần để đạt được mức tối ưu, đo đạc lại và sau đó là phần thi công.
(Nguyễn Minh Trí)

Hỏi: “Bạn hiểu thực hành cảm xạ như thế nào? Mục đích (phạm vi ứng dụng) ứng dụng cảm xạ học nhằm vào các lĩnh vực nào trong đời sống con người ?”

Đáp án tham khảo:

•    Thực hành cảm xạ là người làm cảm xạ (hay có thể gọi là nhà cảm xạ) muốn biết thông tin về một đối tượng nào đó thì bức xạ phát thông tin “hỏi” đến đối tượng đó, liền cảm nhận được thông tin “đáp” về tình hình của đối tượng đó.
•    Mục đích ứng dụng cảm xạ học nhằm vào :
-    Nhà cảm xạ thực hành cảm xạ có thể “hỏi” bạn mình có khỏe không? Nếu không khỏe thì đang mắc bệnh gì, bệnh nặng hay nhẹ, nên trị bằng phương pháp y học nào, liệu bệnh có khỏi không, bao lâu thì khỏi, … ? Mỗi câu hỏi đều được “đáp” khá rõ.
-    Tìm nguồn nước dưới đất (nước ngầm): vùng này có thể khoan và khai thác nước sạch dưới đất (thường gọi là nước ngầm) hay không, lưu lượng bao nhiêu, trữ lượng bao nhiêu, … ?
-    Tìm nguồn tài nguyên khoáng sản,
-    Chọn lựa nhu  yếu phẩm, hàng hóa,
-    Khảo sát phong thủy, địa sinh học, … ,
-    Tìm người đi lạc, của cải, đồ vật bị thất lạc,
-    Nhận xét thân nhân, bạn bè, đối tượng quan hệ giao dịch, - v.v.
(Huỳnh Bửu Hòa)

Hỏi : “Vì sao các nhà ngoại cảm nghe và thấy được vong?”

Đáp án tham khảo:

Những nhà ngoại cảm là những người có khả năng đặc biệt do bẩm sinh, do tai nạn như sét đánh, chó dại cắn... và những người do luyện tập. Họ nghe và thấy được những việc mà chúng ta người bình thường không thể nghe và thấy được. Tại sao ?
Qua nghiên cứu các nhà khoa học thấy mắt người bình thường chỉ nhìn thấy vùng ánh sáng có tần số sóng từ 0.30 micromet÷ 0.76 micromet (lamda). Còn những người ngoại cảm họ có thể thấy vùng nhỏ hơn 0.39 micromet (lamda) rất nhiều, có thể gần bằng không (λ ≈ 0).
Cũng như vậy người có tai thính nhất chỉ nghe được những âm có tần số trong khoảng 1000 - 2500 Hz. Những âm thanh có cường độ quá nhỏ thì tai người không nhận thấy được – nghe được. Những âm thanh có cường độ lên quá cao thì tai bắt đầu chói không nghe được. Nhưng qua nghiên cứu, các nhà khoa học thấy người ngoại cảm họ có thể nghe được âm thanh có cường độ rất nhỏ dưới 16 Hz như Phan Thị Bích Hằng...
(Phạm Văn Phú)

Hỏi: “Cảm xạ học là một môn khoa học vật lý ứng dụng sóng sinh học lượng tử mang thông tin. Bạn có thể diễn giải tóm tắt về cơ sở lý thuyết rằng tại sao nhà cảm xạ có thể cảm nhận được thông tin về quá khứ, hiện trạng và tương lai của đối tượng cảm xạ?”

Đáp án tham khảo:

•    Cảm xạ học là một môn khoa học vật lý ứng dụng sóng sinh học lượng tử mang thông tin để khảo sát và thu thập thông tin về quá khứ, hiện trạng và tương lai của các đối tượng mà nhà cảm xạ quan tâm.
•    Mỗi con người, mỗi sinh vật, mỗi vật thể không ngừng hoạt động, phát sinh, tồn tại, phát triển và chuyển hóa theo những quy luật riêng và chung nhất định. Trong quá trình hoạt động không ngừng ấy, chúng không ngừng bức xạ các tia sóng hình sin mang năng lượng lượng tử và sóng lượng tử mang thông tin lan tỏa vào mọi phía không gian vũ trụ, hình thành trường các vòng sóng hình cầu đồng tâm mà tâm là mỗi con người, mỗi sinh vật, mỗi vật thể ấy. Trường sóng ấy lan tỏa mãi trong không gian đến quãng xa vô cực. Đồng thời, mỗi người, mỗi sinh vật, mỗi vật thể lại chịu nhận bức xạ tác động của sóng năng lượng và sóng thông tin từ vô số người khác, sinh vật khác, vật thể khác trong vũ trụ tới mình. Như vậy, xung quanh mỗi người, mỗi sinh vật, mỗi vật thể, đúng ra là tại trên bất kỳ cơ thể, bộ não mỗi người, trên bất kỳ mỗi sinh vật, trên bất kỳ mỗi vật thể thường xuyên hiện hữu vô vàn sóng năng lượng kèm sóng thông tin lượng tử từ những người khác, sinh vinh vật khác, vật thể khác bức xạ tới mình. Và nhờ vậy, bất kỳ nhà cảm xạ nào muốn cảm nhận thông tin của bất kỳ ai, hay bất kỳ sinh vật nào, hoặc bất kỳ vật thể nào trong vũ trụ này thì đều có thể cảm nhận được! Còn khả năng đúng, sai nhiều, ít là tùy tài năng cảm nhận của mỗi nhà cảm xạ.
•    Và nhà cảm xạ cảm nhận được thông tin quá khứ, hiện tại và tương lai của các đối tượng là nhờ sự ra đời, tồn tại, phát triển, chuyển hóa của đối tượng đều theo một quy luật nhất định, nên thông tin về quá khứ và hiện tại còn lưu lại ấn tượng (gọi là lưu xạ) trên đối tượng. Nhà cảm xạ cảm nhận được thông tin lưu xạ này. Rồi cũng theo quy luật phát triển, chuyển hóa của đối tượng ấy mà bức xạ thông tin dự báo nhà cảm xạ cũng cảm nhận được thông tin tương lai của đối tượng ấy.

Tóm lại, nếu thành thạo, nhà cảm xạ có thể cảm nhận được các thông tin quá khứ, hiện tại và có thể cảm nhận được thông tin dự báo của đối tượng.
(Huỳnh Bửu Hòa)

Hỏi: “Sự cần thiết của vô thức trong quá trình tập luyện”

Đáp án tham khảo

Não của con người có thể phát ra 5 loại sóng
•    Ở trạng thái bình thường Beta có tần số 12-25Hz
•    Ở trạng thái nhắm mắt hoặc ngủ Anpha có tần số 8-12Hz
•    Ở trạng thái vô thức Theta có tần số 4-8Hz Delta có tần số 1-4 Hz
•    Ở trạng thái vô thức hoàn toàn Gama có tần số < 1 Hz
Khi vô thức não bộ thường xuyên phát sóng có tần số thấp, tần số càng thấp thì bức xạ năng lượng dưới dạng sóng ngay càng mạnh. Khi tập vô thức tức là chúng ta tạo ra nhiều năng lượng cho bản thân, giúp ta nâng cao sức khỏe đồng thời ta sẽ có những khả năng diệu kỳ khác như có khả năng chữa bệnh cho người khác bằng nhân điện, hay làm cảm xạ được chính xác hơn. Ta muốn làm cảm xạ được chính xác thì bản thân ta phải có năng lượng cao hơn nhiều năng lượng của đối tượng ta muốn làm cảm xạ.
(Phạm Văn Phú)

Hỏi: “Thiền mang lại nhiều lợi ích”

Đáp án tham khảo:

Định nghĩa thiền:
•    "Tham thiền là một động cơ rất mạnh cho sự tiến bộ về đường tinh thần, trí thức và đạo lý.” (Pythagore)
•    “Thiền đứng riêng một chân trời cùng tuyệt, chủ trương chỉ thẳng vào nơi tánh, thấy thẳng nơi tự tâm để tức khắc thành PHẬT khỏi phải khổ tu nhiều kiếp.” (Mahamatri)
•    Là nhận biết của “tâm” con người; là dịch của của vũ trụ; là bản chất của “tâm” luôn động; là “sống – chết” của tâm “khôn”.
•    Là tư duy về đúng sai và xử lý chúng một cách thấu đáo cho đến khi không còn bàn về sai đúng một cách tự nhiên.
•    Thí khảo có thể lập luận khác về “thiền”.
Lợi ích (cần được thí khảo dùng hiểu biết để minh họa):
•    Thân thể khỏe mạnh: kinh mạch lưu thông; tuần hoàn máu tốt hơn do đó người thực tập thiền thấy vui vẻ yêu đời hơn; các bệnh của thân tự nhiên biến mất.
•    Minh mẫn sáng suốt trong xử lý công việc; các thói hư tật xấu từ từ biến mất; người đạt thành tựu thiền không còn muốn tranh đua với đời do tâm “thanh” làm chủ bản thể; hợp nhất với vũ trụ khiến họ nhận biết sự việc, con người như  chính mình.
•    Người thực hành thiền còn là thành viên nòng cốt góp phần làm bầu không khí gia đình & xã hội (XH) trở nên an hòa; khi phát triển năng lượng thích hợp có khả năng chữa bệnh giúp cho thân nhân & cộng đồng; tập hợp sức mạnh của trí góp sức giúp cho XH phồn vinh.

Thiền đứng riêng biệt như một khái niệm, một đối tượng của triết lý hay đạo giáo không mang đến cho con người lợi ích gì; Chỉ có kết hợp thiền với cuộc sống hàng ngày mới thật “thiền” có lợi lạc cho con người và xã hội.
(Trương Thị Minh Nguyệt)

Tuesday, January 11, 2011

NHỮNG TRỞ NGẠI KHI TẬP YOGA

CÁC HIỆN TƯỢNG VÀ TRIỆU CHỨNG BẤT THƯỜNG

Sau một thời gian tập Yoga, trong người sẽ có những thay đổi nên cần phải thận trọng và luôn luôn quan sát để xem những thay đổi đó tốt hay xấu. Hãy xem dấu hiệu của sự thay đổi, ta sẽ biết ngay mình đang tập đúng hay không đúng.

HIỆU QUẢ
  • Cảm nhận trong người khỏe mạnh hơn, ít bị những bệnh lặt vặt, ban đêm ngủ ngon giấc, da mặt mịn màng hơn mà không nhờ vào kem dưỡng da.
  • Càng ngày càng trầm tĩnh hơn, dễ kiểm soát được những cơn giận, dễ thông cảm những nỗi đau của người khác và tha thứ những lỗi lầm của người khác.
  • Càng ngày càng thông minh hơn, hiểu được những điều mà trước nay mình không hề hiểu, thông được những điều mà trước nay mình không hề thông mà không phải thông qua kinh sách.
Với những hiện tượng tốt vừa kể trên, người tập Yoga sẽ có tinh thần vững vàng hơn để tiến bước trên đường tu tập.

KHÔNG HIỆU QUẢ.

Nếu tập Yoga mà thấy trong người khác thường, như thường hay mỏi mệt, giấc ngủ chập chờn, ngủ không ngon giấc, trở nên gắt gỏng vô cớ, hay hồi hộp. Trên mặt xuất hiện ra những mụn độc mà trước nay mình không hề có, thì phải xem lại cách tập của mình, có thể là do tập quá nhiều những động tác nặng hay là tập quá sức. Nếu tập ít trở lại và những triệu chứng đó bớt đi, thì rõ ràng là có sự khuyết điểm trong tập luyện. Trong khi chưa tìm ra được nguyên nhân để bổ khuyết thì nên ngưng tập và tìm những người nào có nhiều kinh nghiệm trong Yoga để chỉ dẫn.

Bài tập luyện về mắt, nhìn chăm chú vào một điểm [trataka] và bài tập trồng chuối, là hai bài tập thường gây nên một vài biến chứng không tốt, như là mọc mụn độc ở mặt, hay là mắt bị kéo màng. Vì vậy khi tập Yoga phải rất thận trọng và luôn luôn xem xét lại mình, kiểm tra lại những kết quả để quyết định là nên tập hay nên ngưng.

KHÔNG KIÊN TRÌ, THƯỜNG CHÁN NẢN.

Những mục đích tốt đẹp của cuộc đời, những ý định tốt cho tương lai, thường là không khó, nhưng bao giờ cũng cần phải có một thời gian để thực hiện. Nó khó là ở chỗ chúng ta làm thế nào giữ được sự kiên trì, kiên nhẫn để theo đuổi tới cùng phương pháp mà mình đã chọn.

Thường là khi bắt đầu làm một việc gì đó, lúc đầu thì rất hăng say và chăm chỉ, nhưng chỉ đến một lúc nào đó sẽ tự nhiên bỏ cuộc. Bản tính con người thường là như vậy, vì vậy khi tập Yoga ta cần phải biết cách chế ngự tính chán nản. Mỗi ngày tập vào giờ nào thì nhất định phải tập đúng giờ đó, không vì thấy chưa có kết quả mà bỏ dở sự tập. Sự kiên nhẫn sẽ giúp cho ta thành công trong cuộc đời, và sự thành công ấy đối với người kiên nhẫn không có gì là khó khăn lắm. Thời gian đối với chúng ta thật là quý báo, thời gian "không đứng đợi", nhìn qua nhìn lại chẳng mấy chốc thấy mình đã già, mà sự nghiệp để lại chỉ là con số không, rốt cuộc ta thấy ta không bằng một giọt nước, ta đã thất bại vì ta không chọn được mục đích để theo đuổi, hay là khi chọn được mục đích rồi lại không đủ kiên nhẫn để theo tới cùng, ta thường hay thay đổi ý định, hôm nay chọn mục đích này, ngày mai chọn mục đích khác. Các vĩ nhân là những người đã biết chọn một mục đích và theo đuổi mục đích đó cho đến lúc thành công.

Tuesday, January 4, 2011

YOGA VÀ TỰ DO TƯ TƯỞNG

"Đừng tin vào kinh sách cổ viết bằng tay, đừng tin vào một điều mà dân tộc mình tin, hay làm mình tin từ thuở nhỏ. Đối với tất cả mọi điều, đều phải áp dụng lý trí. Sau khi phân tích nếu thấy rằng những điều ấy tốt cho mọi người và cho mỗi người, thì hãy tin nó, sống cho nó, và hãy giúp cho người khác cùng sống như vậy". LỜI CỦA ĐỨC PHẬT.

NGƯỜI TA HƠN LOÀI VẬT LÀ Ở CHỖ BIẾT TƯ DUY, BIẾT SUY NGHĨ. Và nhờ có biết tư duy, biết suy nghĩ nên mới có sự tiến bộ. Nhưng biết tư duy, biết suy nghĩ cũng chưa đủ, mà lại phải cần có TỰ DO TƯ TƯỞNG nữa, không có tự do thì cái gì cũng phải chết chứ đừng nói đến con người. Một cái cây non mới vừa mọc lên, ta cần phải có những cành cây bao chung quanh để bảo vệ, nhưng khi cây đã lớn rồi thì sự bảo vệ không còn cần thiết nữa, mà trái lại nó còn là một trở ngại cho sự trưởng thành của cây.

Một đứa trẻ con nhà giàu, đi học đều có người đưa đón, mỗi một bước đi đều có người chỉ dẫn, vì vậy đứa trẻ ấy sẽ bị mất tự do và thiếu óc quan sát. Nếu hôm nào người đưa đón đến trễ hay không đến, thì hoặc là khóc, hoặc đi lạc đường, hoặc bị tai nạn.

Sự tự do cần thiết cho con người, vì có tự do nên mới có tư tưởng dị đồng, và có sự dị đồng tư tưởng nên người ta phải suy nghĩ đễ tìm ra ý mới. Chính vì vậy mà ta cần phải tôn trọng những ý kiến của người khác, ý kiến ấy có khi là không hợp lý hoặc không đúng, nhưng cũng có thể giúp cho người khác tìm ra một ý mới hơn, đúng hơn.      

Tự do tư tưởng quan hệ đến sự tiến bộ của con người, nếu như có một ai đó nói với chúng ta rằng tất cả các quá khứ đều đúng, đều đầy đủ, đều tốt đẹp...và chúng ta không nên có những tư tưởng mới, mà trái lại chúng ta phải hành động theo những quan niệm do tiền nhân để lại, thì chắc chắn là chúng ta sẽ phản đối và cho rằng người phát ngôn đó là một người vô trách nhiệm hoặc là một người tâm thần.

Mỗi người, tùy theo trình độ tri thức của mình, sẽ hiểu một cách khác nhau. Có người cho rằng chính vì sợ hiểu sai nghĩa nên mới có người chuyên môn nghiên cứu tôn giáo để giảng lại cho đúng những lời của đấng giáo chủ, những người chuyên môn ấy người ta gọi là ông thầy tu. Nhưng ta có chắc rằng những ông thầy tu ấy có hiểu đúng nghĩa không? Ông thầy tu cũng là một người có những ưu điểm và khuyết điểm như người khác và cũng có ông giỏi, ông dốt. Gặp phải ông thầy tu dốt thì nguy vô cùng.

Chính vì biết rằng trong tương lai có người sẽ hiểu sai những giáo lý, nên khi sinh thời Đức Phật đã cho người ta một cái thước đo " Đừng tin vào kinh sách cổ viết bằng tay, đối với tất cả mọi điều đều phải áp dụng lý trí, và chỉ tin những gì tốt cho mọi người và mỗi người". Lời giảng của Đức Phật bao hàm một sự khuyến khích tự do tư tưởng. Đức Phật không bảo con người tin tưởng mù quáng, mà trái lại chỉ tin tưởng sau khi đã thấu hiểu vấn đề một cách rõ ràng, thấu đáo.

Theo triết học YOGA, bản chất của con người thuộc về thượng đế nên có những quyền năng vô biên. Bản chất ấy hiện nay trong mỗi người đều đã bị THAM, SÂN SI che mờ, vì vậy mà con người không thấy được bản chất thật của họ. Bản chất chính của con người được Phật giáo gọi là Tâm phật.

Tâm Phật cũng có thể ví như đáy hồ, và những làn sóng lăn tăn trên mặt hồ là THAM, SÂN, SI. Vì mặt hồ luôn luôn bị gợn sóng, nên nước bị vẩn đục và người ta không trông thấy đáy hồ. Muốn trông thấy đáy hồ, muốn tâm phật xuất hiện, điều trước tiên là phải diệt được tham, sân, si. Và phương pháp diệt tham, sân, si hữu hiệu nhất đó là THIỀN ĐỊNH.

Nếu như con người làm chủ được tương lai của mình, và thông qua phương pháp thiền định tìm thấy ông chủ bên trong của mình, thì còn thờ Phật để làm gì nữa? Và giáo lý của Phật cũng đã nói rõ. "PHẬT KHÔNG PHẢI LÀ MỘT ÔNG THẦN ĐỂ BAN PHƯỚC". Phật là một người đã giác ngộ, đã thoát khỏi vòng sinh tử, luân hồi. Phật chỉ dẫn cho thế gian lại con đường mà ngài đã đi qua, và khuyên mọi người hãy tự giải thoát lấy mình. Vậy chúng ta thờ Phật để làm gì?

1/ Trước hết để tỏ lòng tôn kính người đã tìm ra chân lý tối thượng.
2/ Để luôn luôn ghi nhớ đến lời chỉ dạy của ngài mà noi theo.

Cho nên người tu tại gia cũng có thể thành chánh quả nếu tu theo lời Phật dạy.

Và tôi cũng xin được chia sẻ một chút cùng quý vị được gọi là phật tử.
- Phật không phải là một vị thần, nhận lễ vật, để rồi sẽ ban phước cho người đó, hoặc trị tội một người nào đó nếu người đó không đi cúng chùa.
- Đừng đem tiền cúng vào chùa để cầu phước, để được phước... làm như thế là phỉ báng Phật. Phật không chấp nhận việc này đâu.
- Phước, tội...tự mình làm, tự mình chịu. Đức Phật không bao giờ can thiệp vào việc này. Nếu đức Phật làm được việc này, thì đó không phải là đức Phật.
- Suy ra cho cùng, việc đem tiền cúng vào chùa để cầu được phước...Đây không phải là lỗi của chúng ta, mà là lỗi của người tuyên truyền đường lối phật pháp hoàn toàn sai lệch từ nhiều thế kỷ trước cho đến bây giờ.

Sunday, January 2, 2011

VÁN CỜ SINH TỬ

Thanh niên Ka-jo-ju sau khi thất vọng về đường công danh, tình yêu, sự nghiệp bèn tìm đến một tu viện trên non cao và thưa với Tu viện trưởng:

- Thưa ngài! Con đã thấy rõ bộ mặt thật của đời nên mong muốn giải thoát khỏi những đau khổ. Thế nhưng, con không có khả năng hành trì một thứ gì lâu dài. Không bao giờ con có thể sống nhiều năm trong một thiền định, học tập, giới luật hay cái gì nghiêm túc tương tự như vây. Con sẽ thối chí và rơi trở vào cuộc đời, dẫu biết rằng mình không còn chịu đựng được. Quyên sinh là biện pháp hay nhất, có lẽ. Thưa ngài! Vậy thì còn con đường nào ngắn nhất, dễ dàng nhất dành cho những kẻ như con hay không?

- Có chứ!

Tu viện trưởng một thoáng lạ lùng nhìn người thanh niên rồi trả lời:

– Nếu con trung thực! Nhưng hãy cho ta biết là con đã học những thứ gì? Sở trí ra sao? Có thể có những khả năng như thế nào? Thảng hoặc, con thường hay tập trung tâm ý nhiều nhất vào chuyện gì?

Ka-jo-ju có vẻ nghĩ ngợi, sau đó, y thở dài thườn thượt:

- Ôi! Thực sự thì không có thứ gì! Con chưa nghĩ là mình phải nên như thế này hoặc nên như thế nọ! Vả chăng, mục đích của sự học cũng chỉ đưa đến hư vô và phù phiếm! Công danh, sự nghiệp giữa cuộc đời này cũng chỉ là giấc mộng đầu hôm. Hiện giờ gia đình con lại khá giả nên con không cần phải làm việc. Riêng về sở thích thì … tuyệt, con thích đánh cờ nhất! Cả đời, dường như tâm trí con chỉ tập trung vào đó thôi. Trong vài cuộc tranh giải gồm những kỳ thủ già dặn bốn phương, thỉnh thoảng con cũng giật được một phần thưởng ưu hạng.

- Rất tốt!

Tu viện trưởng gật đầu:

- Chưa đến nỗi phải bỏ đi. Nhưng mà điều này mới thật là quan trọng, con có niềm tin nào nơi ta không chứ?

- Con đã chọn lựa.

- Thế nào?

- Ngài là Kiếm vương!

Thanh niên Ka-jo-ju chợt nói lớn:

- Lại là Kỳ vương nữa. Ngài đã dùng sức mạnh của đạo đức và trí tuệ để thu phục nơi tu viện này những con ngựa hung hăng nhất, những tay giang hồ kiêu ngạo và bạc hãnh nhất. Không cần phải nói rằng người ta tín phục ngài như thế nào, ngài Tu viện trưởng ạ!

- Hỡi con, này Ka-jo-ju! Ta muốn hiểu cường độ tín phục ấy ở riêng nơi con thôi.

Nghe gọi đúng tên mình, Ka-jo-ju rúng động cả châu thân. Bất giác, thanh niên đưa mắt nhìn Tu viện trưởng, và y cảm thấy một sức thu hút kỳ lạ không cưỡng được.

Ka-jo-ju gật:

- Tín phục. Con hoàn toàn tín phục.

Tu viện trưởng chậm rãi quay qua bảo thị giả:

- Vậy hãy cho gọi tu sĩ Mu-ju đến đây cùng với bàn cờ của y.

Người được gọi là một tu sĩ trẻ, rất trẻ, vóc người tầm thước, dáng dấp nho nhã, khuôn mặt sáng rỡ, tròn trặn đầy phúc hậu.

-Mu-ju con!

-Bạch thầy, con nghe.

-Bao nhiêu năm con theo thầy học đạo. Con mời cơm, ta ăn. Ta gọi, con dạ. Ta giẫy cỏ, con cuốc đất … Tình thầy trò giữa chúng ta thật không có gì đáng phải phàn nàn cả chứ?

- Dạ, quả thế thật.

- Ta còn muốn hỏi rõ hơn nữa. Từ trước đến nay, con không hề mảy may nghi ngờ gì nơi ta đấy chứ?

- Phải nói ngược lại, bạch thầy – giọng tu sĩ trẻ chợt như viên đá nặng ngàn cân – phải nói là con tuân phục thầy một cách tuyệt đối.

- Rất tốt! Vậy này Mu-ju! Ngây bay giờ ta yêu cầu con sự tuân phục “Kim cương bất hoại” đó.

- Xin vâng.

Tu viện trưởng – chính là thiền sư Dai-so-kim- chợt đứng dậy, bước tới bức tường phía đông. Ở đó có treo 1 thanh kiếm cổ, vỏ nạm bạc khảm xà cừ, nhưng tuế nguyệt đã phủ lên đấy môt lớp bụi đục. Gần nửa thế kỉ nay, ngài không đụng đến thanh kiếm ấy. Cái thời Kiếm vương trai tráng oanh liệt dường như mới hôm qua đây thôi. Ngài thò tay. Một tiếng động khẽ vang lên. Kiếm đã ra khỏi vỏ. Mũi kiếm sắc lạnh ngời ánh thép xanh biếc.

Thiền-sư Dai-so-kim quay lại, đứng thẳng như một cõi tùng gân guốc.

- Này Mu-ju ! Ngài nói chậm rãi – Con hãy chơi cờ với chàng thanh niên này. Và nghe đây ! Nếu con thua, ta sẽ chém đầu con. Nhưng ta hứa là con sẽ được tái sanh vào một cõi lạc phúc. Nếu con thắng, ta sẽ chém đầu chàng thanh niên. Suốt đời anh ta mê mải ham thích trò chơi đó, nếu để thua thì chém đầu y chẳng oan tí nào.
Hai người lạnh toát sống lưng nhìn Tu viện trưởng, và trong thoáng giây đó, họ hiểu rằng ngài nói thật.

Thanh niên Ka-jo-ju đứng trân, bất động, loáng thoáng theo hơi gió buốt lạnh câu nói xa xưa của Kiếm vương: “Ta ít khi rút kiếm ra khỏi bao, rút ra là phải chém!” Bất giác, thanh niên đưa tay sờ lên cổ mình, mồ hôi lấm tấm, gai lạnh. Tu sĩ Mu-ju chỉ thoáng một giây sợ hãi như tí gợn trên mặt hồ rồi mất. Trọn đời bằng vào đức tin tuyệt đối nơi đức Thầy, nên việc giao phó định mệnh không phải là điều đáng suy nghĩ lâu.

Giữa thiền đường, lư trầm nghi ngút. Cơn gió lạnh lẽo lùa qua liếp cửa . Thiền sư Dai-so-kim ngồi xuống sau làn khói lung linh mờ ảo, tay nắm chặt đốc kiếm trịnh trọng với phong độ của một bậc tôn sư. Không khí đọng lại, trang nghiêm và tĩnh mịch đến ghê người.

Cả hai hoàn toàn bị khiếp phục.
Họ bắt đầu bước vào ván cờ sinh tử.

Ván cờ không còn là trò chơi nữa. Là cái gì nghiêm trọng nhất trên đời này. Ván cờ chính là cuộc đời . Ván cờ chính là sinh tử. Và cả hai hoàn toàn tập trung tâm ý vào đó không một mảy may dám xao lãng.

Chỉ vài nước khởi đầu, thanh niên đã sớm hiểu mình đang đối đương với một địch thủ kỳ tài và già dặn. Tu sĩ trẻ lại un đúc trầm tĩnh của thiền môn. Đó là những yếu tố đáng ngại. Mồ hôi từ trán chàng thanh niên chảy dài xuống ngực. Tu sĩ Mu-ju đã chiếm ưu thế mất rồi. Và như là một lão ngựa tự tin, sung sức – chỉ cần sải từng bước đều đặn giữ khoảng cách đầu ngựa.

Chiến thắng chỉ còn là thời gian.

Ka-jo-ju quên ngoại cảnh, quên bản thân, quên cả việc sống chết. Ngay giây phút này – tình yêu, công danh, sự nghiệp, ưu hận – là những đám mây đen bị xua tan một cách nhanh chóng. Tâm trí Ka-jo-ju hoàn toàn chú mục vào cái đam mê duy nhất của đời mình. Phong độ, sinh lực, thiện xảo, sự thông minh dễ dàng trở lại với chàng. Thế là Ka-jo-ju khôn khéo gỡ từng thế một. Tuy nhiên, tu sĩ Mu-ju vẫn tranh tiên. Rất chậm, vững chãi, từng bước vây hãm thành trì, không một sơ hở tối thiểu để cho chàng thanh niên lập lại thế quân bình.

Đột nhiên, thanh niên Ka-jo-ju bỏ thủ, bỏ cả thành trì, huy sinh quân mã, tung những đòn chớp giật. Lớp chết, lớp khác xông lên với khí thế quyết tử. Lấy công làm thủ là chiến thuật bình thường, nhưng sự hi sinh quá đột ngột, liều lĩnh và táo bạo như vậy thì quả là Mu-ju mới thấy lần đầu. Đến lượt tu sĩ trẻ toát mồ hôi, từng giọt, từng giọt rỏ xuống bàn cờ. Ka-jo-ju chỉ chờ có thế. Chỉ cần một thoáng bối rối lưỡng lự của đối thủ là y chém đông chém tây những thế táo bạo – nhưng chỉ là hư chiêu – rồi rút về an toàn, bình chân như vại.

- Đệ tử vây Ngụy, cứu Triệu, hao tổn tâm cơ là chỉ mong cái thế bảo toàn – Ka-jo-ju thở phào nói – Thật ra, nếu đệ tử không thất vọng tình đời thì không đi những thế tuyệt mạng như vậy. Vì từ bi, vì trung hậu và chơn chất mà tiểu sư phụ mất thế thượng phong. Hiện giờ tiểu sư phụ dẫu hơn quan nhưng chuyện thắng bại khó biết phần ai.

Lợi dụng khi quân mã tu sĩ đang tản mạn đó đây, thanh niên kéo đôi pháo giăng về giữ trung quân. Binh lính và ngựa ngăn ở ven sông. Một xa chợt đông, chợt tây, chợt tấn, chợt thoái xông xáo giữa chốn thiên binh vạn mã.
Tu sĩ trẻ bắt đầu thấy mình yếu thế. Tự tin một thoáng lay động là phía tả tiền bị viên hổ tướng của địch phá vỡ. Lão ngựa già của đối phương đươc hai chốt hộ vệ chặt chẽ, hờm sẵn đã lâu, bây giờ hung hăng nhảy đến thí mạng. Thế là đôi pháo bất khuất kiên cường của tu sĩ bị loại khỏi vòng chiến.

Mu-ju đã rơi vào thế thủ. Thỉnh thoảng vẫn đánh trả những đòn đầy trầm tĩnh và nội lực nhưng thanh niên vẫn đón đỡ dễ dàng. Vào phút bất ngờ nhất, thanh niên Ka-jo-ju tung quân dự bị. Hai pháo giữ nhà đồng loạt vọt qua sông, tung đòn tối hậu.

Tu sĩ đã nguy cơ thập tử nhất sinh.

Thanh niên len lén đưa mắt nhìn vị sư. Đấy là một khuôn mặt trong sáng đầy trí tuệ do bao năm tinh cần giới luật. Ôi! Một dung dấp thật đẹp ở trong một tinh thần cao khiết. Thanh niên nghĩ. Vị tu sĩ này từ hoà và đôn hậu hết mực, mang linh hồn trong sáng như viên ngọc không vết tì nhiễm. Ôi! Đâu có có hắc ám, bụi bặm, hiếu chiến, táo tợn và đa sát cuộc đời như ta? Ôi! Một nhân cách như vậy mà bị kết liễu cuộc đời thật uổng lắm thay! Ta là gì ? Một kẻ du thủ du thực, vô tích sự, ăn bám mẹ cha va xã hội; nếp sống dơ dáy, hư hỏng, nội tâm đầy rẫy những ham muốn bất chánh và hèn hạ. Giá trị đời ta chỉ có thế thôi . Rơm rác còn có ích hơn ta.

Thanh niên nhè nhẹ thở dài. Và lòng từ bi khởi lên dịu dàng xâm chiếm lòng chàng. Ôi! Cuộc đời vô giá trị của ta nên hi sinh cho cuộc đời có giá trị.

Nghĩ thế xong, thanh niên khôn khéo tạo những sơ hở kín đáo, chỉ những kì thủ trứ danh mới biết được. Một thế, hai thế. Vậy là quá đủ cho tu sĩ lấy lại thế quân bình rồi chiếm luôn ưu thế tấn công.

Thanh niên Ka-jo-hu biết mình sẽ thua, lát nữa thôi, nhưng chàng không đổ mồ hôi, không lạnh lưng, không lạnh gáy. Một an tĩnh mênh mông, thân thiết vây phủ tâm hồn chàng. Chưa bao giờ mà chàng chời đợi cái thua – nghĩa là chờ đợi cái chết – một cách dịu dàng, trong sáng, bình lặng và thanh khiết như vậy.

Tu sĩ trẻ ngần ngại. Ngón tay vừa thò xuống quân cờ định mệnh, vội rút lui. Cũng vì lòng từ bi mà tu sĩ không nỡ hạ thủ.

Bàn cờ bất động giữa hai người.

Đối với những tay cờ ưu hạng, không có thế cuối cùng, Ka-jo-ju hiểu vậy, và vì đã nguyện hi sinh, bèn thò tay xuống …

Bỗng một làn khí lạnh lướt qua. Tu sĩ Mu-ju thoáng thấy thiền sư Dai-so-kim đứng dậy chập chờn sau làn khói hương. Và một tia chớp phủ chụp xuống đầu chàng thanh niên. Tu sĩ nhắm mắt lại, khẽ tuyên Phật hiệu …
Thiền đường lặng ngắt như tờ. Tu sĩ trẻ định thần mở mắt ra. Mắt y chợt tròn vo, kinh ngạc. Cái đầu với tóc tai rối bù của chàng thanh niên đã bị cạo nhẵn thín. Và giọng thiền sư Dai-so-kim trầm ấm, mồn một bên tai:

- Chỉ cần có hai điều, Ka-jo-ju con hỡi ! Ấy là sự tập trung tâm ý hoàn toàn và lòng từ bi. Hai yếu tố quan trọng của Đạo Giác ngộ. Thế mà hôm nay con học được cả hai. Con đã tập trung tâm ý có hiệu quả vào ván cờ. Sau đó vì lòng từ bi mà con nguyện hi sinh mạng sống cua mình. Thôi, hãy ở lại đây, áp dụng kỷ luật của chúng ta trong tinh thần đó. Giải thoát sẽ là kết quả đương nhiên như mũi tên đến tiêu điểm theo đường nhắm trúng.

Thanh niên Ka-jo-ju đưa tay sờ lên đầu mình, chàng mỉm cười.


Minh Đức Triều Tâm Ảnh